Bản án về tội trộm cắp tài sản số 112/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 112/2022/HS-ST NGÀY 22/12/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 12 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 110/2022/TLST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 107 /2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:

Đinh Thành Tr, sinh năm 1999.

Nơi cư trú: thôn V, xã V, huyện H, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; con ông Đinh Quốc O và bà Vũ Thị L; vợ, con: chưa; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 06/10/2022 (có mặt).

Bị hại: ông Vũ Văn Ú, sinh năm 1974 (vắng mặt).

Nơi cư trú: thôn V, xã V, huyện H, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 02 giờ ngày 03/10/2022, Đinh Thành Tr, cư trú tại thôn V, xã V, huyện H, đi bộ từ nhà trên địa bàn thôn khi đi đến nhà ông Vũ Văn Ú ở cùng thôn, Tr thấy trong sân nhà ông Ú có để 02 xe máy: 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh đen bạc, biển kiểm soát 17B4-xxxxx và 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh trắng, biển kiểm soát 29R4-xxxx có cắm một chùm chìa khóa ở ổ khóa điện, lợi dụng đêm vắng mọi người trong nhà đang ngủ Tr trèo qua tường vào trong sân, rồi đi lại gần chiếc xe máy rút chùm chìa khóa ở ổ khóa điện đi ra mở cổng. Sau đó, Tr bỏ chùm chìa khóa và ổ khóa vào áo chống nắng Tr đang mặc. Thấy chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh đen bạc, biển kiểm soát 17B4-xxxxx còn mới, Tr dong lùi chiếc xe máy trên ra khỏi cổng, rồi vất lại chùm chìa khóa và ổ khóa (sau này gia đình ông Ú đã tìm thấy). Tr tiếp tục dong chiếc xe trộm cắp được đi đến vườn nhà bà Đinh Thị B ở cùng thôn cất giấu. Sau khi trộm cắp được xe, Tr tháo 02 gương chiếu hậu xe mang về. Trên đường đi, Tr vất 02 gương chiếu hậu xuống ao thuộc thôn Phú Khu, xã V, huyện H. Sau đó Tr đi về nhà ngủ. Đến chiều cùng ngày bị Công an xã V, huyện H, tỉnh T triệu tập lên làm việc, Tr đã khai nhận toàn bộ hành vi như đã nêu trên.

Bản kết luận định giá tài sản số 35 ngày 05/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh T, kết luận:

01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave Alpha, sơn màu xanh đen bạc, biển kiểm soát 17B4-xxxxx đã qua sử dụng tại thời điểm bị xâm hại có giá trị thành tiền là 18.000.000 đồng (mười tám triệu đồng).

Bản cáo trạng số 114/CT-VKSHH ngày 30-11-2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh T truy tố bị cáo Tr về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Tr và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Tr phạm tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Tr mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 năm đến 03 năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Vũ Văn Ú đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì, do vậy về trách nhiệm dân sự không đặt ra giải quyết.

Vật chứng của vụ án: Áp dụng điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 quần dài thun màu xanh có lô gô thêu chữ “THE NORTH FACE”, đã qua sử dụng; 01 chiếc áo chống nắng dài tay có mũ nâu có in mác “DIOR PARIS”, đã qua sử dụng; 01 lưỡi tua vít một đầu bẹt, một đầu nhọn 4 cạnh dài khoảng 20cm, đã qua sử dụng; 01 đôi dép quai màu vàng đen, đã qua sử dụng. Bị cáo Tr phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Tr không tranh luận gì. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị hại và những người làm chứng, đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến phiên toà nhưng vắng mặt. Xét thấy tại giai đoạn điều tra, họ đã có lời khai đầy đủ nên việc vắng mặt của họ không làm ảnh hưởng đến việc xét xử, vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều 292, Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu chứng cứ sau: Đơn trình báo và lời khai của ông Vũ Văn Ú (bút lục 02 và từ số 82 đến số 85); biên bản kiểm tra, xác định nơi xảy ra vụ việc, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường; Biên bản xác định hiện trường, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H, tỉnh T lập hồi 14 giờ 00 phút ngày 04/10/2022 tại nhà ông Vũ Văn Ú ở thôn V, xã V, huyện H và các bản ảnh vật chứng, bản ảnh khác (bút lục từ số 24 đến số 38); Bản kết luận định giá tài sản số 35 ngày 05/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND huyện H (bút lục số 43); Bản kết luận giám định số 254 ngày 17/10/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận “Tại thời điểm giám định 01 xe mô tô, dãn nhãn hiệu HONDA WAVE ALPHA, màu sơn xanh đen bạc, gắn biển kiểm soát 17B4-xxxxx không bị tẩy xóa, sửa chữa, đục lại” (bút lục số 56). Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 02 giờ ngày 03/10/2022, tại nhà ở ông Vũ Văn Ú thôn V, xã V, huyện H, tỉnh T, Đinh Thành Tr có hành vi trộm cắp 01 xe mô tô, nhãn hiệu HONDA Ware Alpha, màu sơn xanh đen bạc, biển kiểm soát 17B4-xxxxx của ông Vũ Văn Ú, trị giá trị 18.000.000 đồng. Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo Tr đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 173: Tội trộm cắp tài sản quy định

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

…….

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”.

[4] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội nơi địa phương xảy ra tội phạm. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức và điều khiển hành vi của mình, vì muốn có tiền tiêu sài bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS, trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt. Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử, xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần phạt tù nhưng cho bị cáo hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách nhất định, giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục cũng có đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo nói riêng và phòng ngừa chung cho xã hội, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[5] Về trách nhiệm dân sự: bị hại ông Vũ Văn Ú đã nhận số tài sản đã mất và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm gì, do vậy về trách nhiệm dân sự Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về xử lý vật chứng: 01 quần dài thun màu xanh có lô gô thêu chữ “THE NORTH FACE”, đã qua sử dụng; 01 chiếc áo chống nắng dài tay có mũ nâu có in mác “DIOR PARIS”, đã qua sử dụng; 01 lưỡi tua vít một đầu bẹt, một đầu nhọn 4 cạnh dài khoảng 20cm, đã qua sử dụng; 01 đôi dép quai màu vàng đen, đã qua sử dụng. Xét thấy các tài sản trên không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu để tiêu hủy.

[7] Bị cáo Tr phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Từ các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Đinh Thành Tr phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Tr 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Tr cho UBND xã V, huyện H, tỉnh T giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố tình vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 quần dài thun màu xanh có lô gô thêu chữ “THE NORTH FACE”, đã qua sử dụng; 01 chiếc áo chống nắng dài tay có mũ nâu có in mác “DIOR PARIS”, đã qua sử dụng; 01 lưỡi tua vít một đầu bẹt, một đầu nhọn 4 cạnh dài khoảng 20cm, đã qua sử dụng; 01 đôi dép quai màu vàng đen, đã qua sử dụng (vật chứng trên hiện đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh T quản lý).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa 14; bị cáo Tr phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Tr có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

47
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 112/2022/HS-ST

Số hiệu:112/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:22/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về