Bản án về tội trộm cắp tài sản số 11/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC DƯƠNG, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 11/2023/HS-ST NGÀY 26/04/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 4 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩmthụ lý số 06/2023/TLST-HS ngày 03 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2023/QĐXXST- HS ngày 15 tháng 3 năm 2023; Quyết định hoãn phiên toà số 02/2023/HSST-QĐ ngày 30/3/2023 và Thông báo hoãn phiên toà số 03/TB-TA ngày 19/4/2023, đối với bị cáo:

Họ tên: Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 13 tháng 6 năm 1999, tại Khánh Hoà; nơi đăng ký thường trú: Số 07 LHP, phường P, thành phố NT, tỉnh Khánh Hoà; chỗ ở: 404 LHP, phường P, thành phố NT, tỉnh Khánh Hoà; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc S, bà Nguyễn Thị Ngọc L; vợ, con: Chưa.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Nhân thân:

+ Ngày 07/8/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hoà xử phạt 03 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”;

+ Ngày 18/8/2022, Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa xử phạt 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 262/2022/HSST (bản án có hiệu lực pháp luật ngày 27/12/2022); Ngày 05/01/2023, TAND TP Nha Trang ra Quyết định thi hành án phạt tù đối với Nguyễn Ngọc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 17/11/2022, tạm giam từ ngày 26/11/2022, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

* Người bị hại:

- Ông Bùi Văn Q, sinh năm 1969; cư trú tại: Thôn 1, xã Đ, huyện LD, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.

- Ông Kon Sơ Ha A, sinh năm 2001; cư trú tại: Thôn ĐC, xã ĐN, huyện LD, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.

- Ông Lương Xuân C, sinh năm 1993; cư trú tại: Thôn Đ, xã ĐN, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Ông Bùi Trọng S; cư trú tại: Thôn TM, xã TC, huyện TT, tỉnh Thanh Hoá.

Vắng mặt.

- Ông Cil Phi Criêu Y S, sinh năm 1992; cư trú tại: Thôn ĐRH, xã ĐN, huyện LD, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.

- Ông Lương Chí T, sinh năm 1998; cư trú tại: Xóm 1, TĐ, xã TH, huyện ĐT, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.

- Bà Nguyễn Thị Ngọc L, sinh năm 1977; cư trú tại: Số 07 LHPg, phường P, thành phố NT, tỉnh Khánh Hoà. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đêm ngày 16/11/2022, Nguyễn Ngọc H cùng ba đối tượng tên là B, C, và T rủ nhau từ thành phố Nha Trang đi lên huyện Lạc Dương và thành phố Đà Lạt để trộm cắp xe máy để bán lấy tiền tiêu xài. B điều khiển xe mô tô Exciter chở T, C điều khiển xe mô tô Lead chở H đi từ thành phố Nha Trang lên huyện Lạc Dương theo đường đèo Khánh Lê. Khoảng 03 giờ, ngày 17/11/2022, khi cả nhóm đi đến địa phận thôn Đa Blah, xã Đạ Nhim, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng thì phát hiện có 01 xe mô tô hiệu YAMAHA, loại Sirius, biển kiểm soát 49F1 – xxxxx của ông Lương Xuân C dựng trước sân nhà. B vào lấy trộm chiếc xe đưa cho T điều khiển cùng đồng bọn đi ngược về hướng thành phố Nha Trang. Khi đi đến thôn Đạ Cháy, xã Đạ Nhim, huyện Lạc Dương, B phát hiện có 01 xe mô tô hiệu YAMAHA, loại Sirius, biển kiểm soát 49P1 – xxxxx của ông Kon Sơ Ha A dựng trước sân nhà, B vào lấy trộm đưa cho H điều khiển rồi tất cả chạy về hướng Nha Trang. Khi cả nhóm đi đến xã Đạ Chais, thấy có bãi cỏ lau bên phải đường Quốc lộ 27C, B nói H, T đem 02 xe vừa trộm cắp được cất giấu vào trong bãi cỏ để đi trộm cắp thêm xe khác. Sau khi cất giấu 02 chiếc xe mô tô trộm cắp được vào trong bụi cỏ, cả nhóm chạy về thành phố Đà Lạt để đi trộm tiếp nhưng không trộm cắp được tài sản nào khác. Cả nhóm quay về hướng Nha Trang theo đường QL 27C. Đến khoảng 05 giờ 45 phút cùng ngày, khi đi đến khu vực Bãi Ruộng thuộc thôn 1, xã Đạ Sar, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng, H thấy có một chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại Sirius biển kiểm soát 36E1-xxxxx của ông Bùi Văn Q dựng trước cửa nhà ông Q (nằm bên phải đường hướng Đà Lạt – Nha Trang). H nói cả nhóm dừng lại để H vào trộm xe trên, những người còn lại đứng cảnh giới. B đưa cho H 01 đầu vít 6 cạnh được mài một đầu nhọn, dẹt, và hai khóa số 8. H đi bộ đến vị trí dựng xe, sử dụng đầu vít 6 cạnh bẻ khóa xe, khởi động máy, điều khiển xe về hướng thành phố Nha Trang cùng B, C và T. Đến khoảng 06 giờ cùng ngày, khi đến đoạn gần khu du lịch Z, thuộc xã Đạ Nhim thì H bị lực lượng Công an phát hiện bắt giữ cùng chiếc xe mô tô biển kiểm soát 36E1-xxxxx; còn B, C, T đã chạy trốn.

- Kết quả khám nghiệm hiện trường đã xác định vị trí ban đầu để xe mô tô biển kiểm soát 49P1 – xxxxx, xe mô tô biển kiểm soát 36E1-xxxxx, xe mô tô biển kiểm soát 49F1 – xxxxx, cũng như vị trí cất giấu 2 chiếc xe bị cáo và đồng bọn trộm được.

- Kết quả thực nghiệm điều tra đã xác định H là người trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe mô tô biển kiểm soát 36E1-xxxxx tại khu vực Bãi Ruộng thuộc thôn 1, xã Đạ Sar, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng vào rạng sáng ngày 17/11/2022.

- Kết luận số 37/KL-HĐĐGTSTTHS ngày 24/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện Lạc Dương đã xác định: xe mô tô nhãn hiệu Yamaha loại Sirius màu trắng đen BKS: 36E1-xxxxx có giá: 11.400.000 đ; xe mô tô nhãn hiệu Yamaha loại Sirius màu trắng đen BKS: 49P1-xxxxx có giá: 7.520.000đ; xe mô tô nhãn hiệu Yamaha loại Sirius màu trắng đen BKS: 49F1-xxxxx có giá: 500.000đ. Tổng giá trị của 03 xe mô tô được định giá là 19.420.000 đồng.

Bản cáo trạng số 09/CT-VKSLD ngày 03 tháng 3 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng truy tố; không thắc mắc, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

- Bà Nguyễn Thị Ngọc L và ông Lương Xuân C không có yêu cầu HĐXX giải quyết vấn đề gì.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Dương vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như cáo trạng đã nêu, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc H từ 24 tháng đến 30 tháng tù và tổng hợp Bản án số 262/2022/HSST ngày 18/8/2022 của Toà án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà.

+ Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu huỷ 02 khóa số 8 bằng kim loại, trên thân có chữ “CHROME VANADIUM”; đề nghị xử lý chiếc xe mô tô biển kiểm soát 49F1-xxxxx theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra, bị cáo và người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.

Đối với việc vắng mặt của những người bị hại (ông Bùi Văn Q, ông Kon Sơ Ha A); những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (các ông Bùi Trọng S, Lương Chí T, Cil Phi Criêu Y S), Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt đương sự theo quy định tại Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Phân tích những chứng cứ xác định có tội, không có tội của bị cáo; đánh giá tính chất, mức độ hành vi của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Ngọc H khai nhận: Vào đêm ngày 16/11/2022, bị cáo đã cùng ba đối tượng tên là B, C, và T rủ nhau đi trên hai xe mô tô (không xác định được biển kiểm soát) đi từ thành phố Nha Trang đến địa bàn huyện Lạc Dương trộm được 03 xe máy gồm: Xe biển kiểm soát 49F1 – xxxxx của ông Lương Xuân C và xe mô tô hiệu Sirius, biển kiểm soát 49P1 – xxxxx của ông Kon Sơ Ha A, đem cất giấu; sau đó cả nhóm tiếp tục trộm xe mô tô biển kiểm soát 36E1- xxxxx của ông Bùi Văn Q, bị cáo trực tiếp bẻ khoá xe và điều khiển xe; sau khi lấy được xe thì cả nhóm đến đoạn gần khu du lịch Z, thuộc xã Đạ Nhim thì H bị lực lượng Công an phát hiện bắt giữ cùng chiếc xe mô tô biển kiểm soát 36E1-xxxxx; còn B, C, T đã chạy trốn.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra; biên bản khám nghiệm hiện trường; kết quả thực nghiệm điều tra; lời khai của những người bị hại và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án; đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản hợp pháp của người khác, tổng trị giá tài sản trộm được là 19.420.000 đồng, gây mất an ninh chính trị tại địa phương. Bị cáo là người có nhân thân xấu, cụ thể: năm 2018 đã bị Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hoà xét xử về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; ngày 18/8/2022 Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa xử phạt 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 262/2022/HSST. Song bị cáo không lấy làm bài học kinh nghiệm và tiếp tục phạm tội khi bản án của Toà án chưa có hiệu lực pháp luật. Do vậy, cần xử phạt mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra; đồng thời tổng hợp bản án mà bị cáo chưa thi hành.

Trong vụ án còn có các đối tượng tên B, C, T đều là những người cùng bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, cơ quan điều tra chưa xác định được nhân thân, lý lịch của các đối tượng này nên đã tách ra để tiếp tục xác minh, xử lý theo quy định của pháp luật; Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét.

[3]. Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; tài sản đã thu hồi và trả lại cho người bị hại; gia đình bị cáo (mẹ đẻ bị cáo) đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại (ông Lương Xuân C, ông Kon Sơ Ha A); ông Cao, ông A xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nhiều lần nên áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[4]. Về xử lý vật chứng: Vật chứng thu được là: Xe mô tô nhãn hiệu Yamaha loại Sirius màu trắng đen BKS: 36E1-xxxxx, đứng tên ông Bùi Trọng S; xe mô tô nhãn hiệu Yamaha loại Sirius màu trắng đen BKS: 49P1-xxxxx, đứng tên ông Cil Phi Criêu Y S; xe mô tô nhãn hiệu Yamaha loại Sirius màu trắng đen BKS: 49F1- xxxxx, đứng tên ông Lương Chí T; 02 (hai) khóa số 8 bằng kim loại, trên thân có chữ “CHROME VANADIUM”, một đầu tròn, một đầu hình chữ U (một cái dài 12 cm và một cái dài 13 cm).

Trong quá trình điều tra, ông Bùi Trọng S xác định đã cho bố là ông Bùi Văn Q chiếc xe 36E1-xxxxx nên ông không có yêu cầu gì (BL 124); ông Cil Phi Criêu Y S xác định đã bán xe 49P1-xxxxx cho ông Kon Sơ Ha A, ông cũng không có yêu cầu gì (BL 129). Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô biển kiểm soát 36E1-xxxxx cho ông Bùi Văn Q và trả xe mô tô biển kiểm soát 49P1-xxxxx cho ông Kon Sơ Ha A nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét.

Đối với chiếc xe kiểm soát 49F1-xxxxx đứng tên ông Lương Chí T, do ông Lương Xuân C sử dụng trước khi bị cáo trộm cắp. Xét thấy, tài sản này chưa được làm rõ chủ sở hữu tài sản nên giao lại cho Cơ quan điều tra xử lý theo quy định của pháp luật.

Vật chứng là 02 (hai) khóa số 8 bằng kim loại, trên thân có chữ “CHROME VANADIUM”, một đầu tròn, một đầu hình chữ U, xét thấy không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu huỷ.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Ông Bùi Văn Q, ông Kon Sơ Ha A đã nhận lại tài sản; ông Lương Xuân C đã nhận tiền do mẹ bị cáo bồi thường. Những người này không yêu cầu gì đối với bị cáo nên không xem xét.

Đối với số tiền bà Nguyễn Thị Ngọc L (mẹ đẻ bị cáo) đã bồi thường cho ông Kon Sơ Ha A và ông Lương Xuân C, mỗi người 2.000.000 đồng thay cho bị cáo thì bà L không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả lại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 56; khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo: Nguyễn Ngọc H 30 (ba mươi) tháng tù.

Tổng hợp hình phạt 02 (hai) năm tù của Bản án số 262/2022/HSST ngày 18/8/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Buộc bị cáo phải chấp hành chung của cả hai bản án là 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17 tháng 11 năm 2022.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: 02 (hai) khóa số 8 bằng kim loại, trên thân có chữ “CHROME VANADIUM”, một đầu tròn, một đầu hình chữ U (một cái dài 12 cm và một cái dài 13 cm).

- Giao cho Cơ quan cảnh sát Điều tra – Công an huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng chiếc xe kiểm soát 49F1-xxxxx đứng tên ông Lương Chí T để làm rõ chủ sở hữu tài sản theo quy định của pháp luật.

(theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07 tháng 3 năm 2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra huyện Lạc Dương với Chi cục Thi hành án dân sự Lạc Dương).

3. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc H phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo; còn người bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt thì có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội trộm cắp tài sản số 11/2023/HS-ST

Số hiệu:11/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Dương - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về