TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC SƠN, TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 11/2022/HS-ST NGÀY 08/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 08 tháng 6 năm 2022 tại Tòa án nhân dân huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 09/2022/TLST- HS ngày 06 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2022/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:
Dương Hữu Đ, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1994 tại xã H, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Nơi cư trú: Khối phố H, thị trấn B, huyện B, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Hữu T, sinh năm 1969 và bà Dương Thị C, sinh năm 1972; vợ, con: Chưa có; tiền án: Có 03 tiền án: Tại bản án số 18/2017/HSST ngày 10/8/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 07 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội mới; Bản án số 23/2018/HSST, ngày 30/8/2018 ngày 30/8/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, đã chấp hành xong hình phạt, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội; Bản án số 01/2020/HS-ST ngày 13/01/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 16 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, đã chấp hành xong hình phạt, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội mới). Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 31/3/2017 bị Công an huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính 1.000.000đ (Một triệu đồng) về hành vi Trộm cắp tài sản nhưng đã được xóa; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 22/02/2022 đến nay. Có mặt.
- Bị hại: Bà Dương Thị L, sinh năm 1966. Địa chỉ: Thôn Đ, xã B, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Dương Hữu T, sinh năm 1969. Địa chỉ: Khối phố H, thị trấn B, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
- Người làm chứng: Ông Dương Thời H, sinh năm 1974. Địa chỉ: Thôn Đ, xã B, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 16 giờ 45 phút ngày 11/02/2022, Dương Hữu Đ, sinh năm 1994, trú tại thôn H, thị trấn B, huyện B, tỉnh Lạng Sơn một mình điều khiển xe môtô biển kiểm soát 12K4-2347 đi lên xã B để đón cháu Dương Công M.T là con của chị gái. Khi đi lên đến nơi, không gặp được cháu nên Đ tiếp tục điều khiển xe môtô đi theo đường 243 qua địa phận thôn Đ, xã B, huyện B, tỉnh Lạng Sơn thấy nhà của Dương Thị L sinh năm 1966, trú tại thôn Đ, xã B, huyện B, tỉnh Lạng Sơn, cửa đóng, không có ai ở nhà nên đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản, Đ quay lại đỗ xe giữa cổng và gọi xem có ai ở trong nhà không, nhưng không thấy ai thưa, Đ mở chốt cổng đi vào sân, tiếp tục gọi to nhưng không có ai. Xác định là không có người ở nhà, Đ mở cửa chính đi vào trong nhà bật đèn flash điện thoại để soi tìm tiền và tài sản có giá trị, khi Đ lục tủ, chăn màn bên trong phòng ngủ thì thấy 01 (một) tập lì xì màu đỏ bên trong có 01 (một) cọc tiền trị giá 2.900.000đ, Dương Hữu Đ cầm lấy bỏ vào túi áo bên trái đang mặc, đi ra khỏi nhà tiếp tục đến đón cháu Dương Công M.T về thị trấn B. Sau khi thực hiện hành vi trộm cắp được số tiền trên Dương Hữu Đ đã sử dụng số tiền đó để tiêu sài cho bản thân.
Vật chứng của vụ án: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã làm rõ được: 01 (Một) xe mô tô biển kiểm soát 12K4-2347 màu sơn đỏ đen, xe cũ đã qua sử dụng không có gương chiếu hậu, Dương Hữu Đ sử dụng để đi trộm cắp tài sản là xe mô tô của ông Dương Hữu T để ở nhà không biết bị cáo lấy đi trộm cắp tài sản; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu hồng cũ, đã qua sử dụng, đây là điện thoại bị cáo Dương Hữu Đ sử dụng để soi sáng trong quá trình tìm trộm cắp tài sản. Hiện các vật chứng đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Sơn theo quy định.
Về trách nhiệm dân sự: Tại Cơ quan điều tra bị cáo đã giao nộp khoản tiện trộm cắp được là 2.900.000đ. Ngày 24/02/2022 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Sơn đã trả lại số tiền 2.900.000đ cho bị hại bà Dương Thị L, bị hại bà Dương Thị L không yêu cầu bị cáo Dương Hữu Đ phải bồi thường gì thêm.
Tại bản Cáo trạng số 09/CT-VKSBS ngày 06/5/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Dương Hữu Đ về tội Trôm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo Dương Hữu Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Sơn đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan.
Trong phần tranh luận, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Dương Hữu Đ và đề nghị Hội đồng xét xử:
Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Dương Hữu Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38, 50; điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Dương Hữu Đ từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu hồng, đã qua sử dụng; Trả lại cho ông Dương Hữu T 01 xe mô tô biển kiểm soát 12K4-2347 màu sơn đỏ đen, không có gương chiếu hậu, xe cũ đã qua sử dụng.
Án phí: Buộc bị cáo Dương Hữu Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không ai có ý kiến gì tranh luận với Kiểm sát viên. Lời nói sau cùng của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ về hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.
[2] Về thủ tục tố tụng, tại phiên tòa bị hại bà Dương Thị L vắng mặt, đã có đơn xin xét xử vắng mặt và không có yêu cầu gì; người làm chứng ông Dương Thời H vắng mặt không có lý do và đã được tống đạt hợp lệ. Xét thấy, việc vắng mặt bị hại và người làm chứng không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt những người này là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 292, khoản 1 Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[3] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở để kết luận: Ngày 11/02/2022, Dương Hữu Đ một mình điều khiển xe môtô biển kiểm soát 12K4-2347 đi lên xã B để đón cháu Dương Công M.T là con của chị gái. Khi đi lên đến nơi, không gặp được cháu nên bị cáo tiếp tục điều khiển xe môtô đi theo đường 243 qua địa phận thôn Đ, xã B, huyện B, tỉnh Lạng Sơn thấy nhà của Dương Thị L cửa đóng, không có ai ở nhà nên đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản, bị cáo Dương Hữu Đ quay lại đỗ xe giữa cổng và gọi xem có ai ở trong nhà không, nhưng không thấy ai thưa, Dương Hữu Đ mở chốt cổng đi vào sân, tiếp tục gọi to nhưng không có ai. Xác định là không có người ở nhà, Dương Hữu Đ mở cửa chính đi vào trong nhà bật đèn flash điện thoại để soi tìm tiền và tài sản có giá trị, khi Dương Hữu Đ lục tủ, chăn màn bên trong phòng ngủ thì thấy 01 (một) tập lì xì màu đỏ bên trong có 01 (một) cọc tiền trị giá 2.900.000đ, Dương Hữu Đ cầm lấy bỏ vào túi áo bên trái đang mặc, đi ra khỏi nhà tiếp tục đến đón cháu Dương Công M.T về thị trấn B để tiêu sài cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Sơn truy tố bị cáo Dương Hữu Đ về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.
[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương, hành vi của bị cáo phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.
[5] Về nhân thân: Ngày 31/3/2017 bị Công an huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính 1.000.000đ (một triệu đồng) về hành vi Trộm cắp tài sản nhưng đã được xóa.
[6] Về tiền án, tiền sự: Bị cáo có 03 tiền án chưa được xóa án tích: Tại bản án số 18/2017/HS-ST ngày 10/8/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 07 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội; Bản án số 23/2018/HS-ST ngày 30/8/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội và tại Bản án số 01/2020/HS-ST ngày 13/01/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 16 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, bị cáo chấp hành xong hình phạt trở về địa phương nhưng chưa chấp hành xong các khoản tiền phạt của bản án trước lại tiếp tục phạm tội. Do vậy bị cáo là người có nhân thân xấu.
[7] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Do bị cáo bị kết án đã chấp hành xong hình phạt tù của các bản án trước nhưng chưa được xóa án tích và chưa chấp hành xong nghĩa vụ về tiền án phí, tiền bồi thường dân sự lại tiếp tục phạm tội. Do vây, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.
[8] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và đã tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả. Do vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự để xem xét quyết định hình phạt cho bị cáo thấy được sự khoan hồng của Đảng và Nhà nước đối với người phạm tội biết ăn năm hối cải.
[9] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo bị cáo trở thành người công dân tốt cho gia đình và xã hội.
[10] Về hình phạt bổ sung: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã làm rõ được bị cáo Dương Hữu Đ sống phụ thuộc vào bố mẹ, không có thu nhập và không có tài sản riêng gì có giá trị. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[11] Về trách nhiệm dân sự: Tại Cơ quan điều tra bị cáo đã giao nộp số tiền 2.900.000đ để bồi thường cho bị hại là bà Dương Thị L. Sau khi nhận số tiền bị mất bà Dương Thị L không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại gì thêm và tại đơn xin xét xử vắng mặt bà Dương Thị L cũng không yêu cầu đề nghị gì thêm. Do vậy, Hội đồng xét xử xác nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã trả số tiền 2.900.000đ cho bà Dương Thị L theo biên bản giao nhận ngày 24/02/2022.
[12] Về vật chứng của vụ án gồm: 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 12K4- 2347 màu sơn đỏ đen, không có gương chiếu hậu, xe cũ đã qua sử dụng mà bị cáo sử dụng để đi trộm cắp tài sản là xe mô tô của ông Dương Hữu T để ở nhà, bị cáo lấy xe đi không hỏi và ông cũng không biết việc bị cáo lấy xe đi trộm cắp tài sản. Do vậy, tại phiên tòa ông Dương Hữu T yêu cầu lấy lại chiếc xe mô tô là có căn cứ chấp nhận. Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu hồng cũ, đã qua sử dụng, đây là điện thoại mà bị cáo Dương Hữu Đ đã sử dụng để soi sáng trong quá trình tìm trộm cắp tài sản. Do vậy, cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước. Xác nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã trả số tiền là 2.900.000đ cho bà Dương Thị L theo biên bản giao nhận ngày 24/02/2022.
[13] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt cũng như các vấn đề khác đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[14] Bị cáo bị kết án phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định để sung ngân sách Nhà nước.
[15] Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; Điều 38, 50; điểm b, s khoản 1 Điều 51;
điểm h khoản 1 Điều 52; điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự;
Căn cứ điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí toà án;
1. Tuyên bố bị cáo Dương Hữu Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản".
2. Xử phạt bị cáo Dương Hữu Đ 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 22/02/2022. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
3. Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 6s màu hồng nhạt, số sê ri: F17R506AGRXV, số imei:
353257078699286, điện thoại đã qua sử dụng.
- Trả lại cho ông Dương Hữu T 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 12K4- 2347 màu sơn đỏ, đen. Số máy: VHLZS152FMH100941; số khung: MN7H000941 theo giấy đăng ký xe, tuy nhiên số khung hiện tại là RRKWCH2UM5X đã bị xóa, xe cũ đã qua sử dụng.
- Xác nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã trả số tiền 2.900.000đ (hai triệu chín trăm) cho bà Dương Thị L theo biên bản giao nhận ngày 24/02/2022.
4. Về trách nhiệm dân sự: Xác nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn bị cáo Dương Hữu Đ đã bồi thường số tiền 2.900.000đ (hai triệu chín) cho bà Dương Thị L theo biên bản giao nhận ngày 24/02/2022.
5. Về án phí: Buộc bị cáo Dương Hữu Đ phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.
6. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 11/2022/HS-ST
Số hiệu: | 11/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bắc Sơn - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về