Bản án về tội trộm cắp tài sản số 110/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 110/2023/HS-ST NGÀY 23/11/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 11 năm 2023, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thị xã Đ, tỉnh Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 110/2023/TLST-HS, ngày 27 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 109/2023/QĐXXST-HS, ngày 10 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Hữu V (V Lượm); Sinh năm 1984; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nơi cư trú: Tổ 42, phường Mỹ An, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ học vấn: 12/12; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 06/3/2021, bị UBND phường Mỹ An ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường thời hạn 6 tháng, chấp hành xong ngày 06/9/2021; Ngày 21/7/2005, bị Tòa phúc thẩm TANDTC tại Đà Nẵng xử phạt 01 năm tù về tội “Cướp tài sản”, đã chấp hành xong. Tên cha Nguyễn Hữu Tình, sinh năm 1959; Tên mẹ Đặng Thị Bích H, sinh năm 1961; Tên vợ Võ Thị T, sinh năm 1989 (đã ly hôn). Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ nhất. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/6/2023, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Đ. Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1. Anh Nguyễn Bảo T; Sinh năm 1998.

Trú tại: Số 78 Trần Hưng Đạo, phường ĐN, thị xã Đ, tỉnh Q (vắng mặt).

2. AnhĐinh Huy H; Sinh năm Sinh năm 2004.

Trú tại: TDP 07. Phường ĐP thành phố ĐH, tỉnh QB. (vắng mặt).

3. Bà Nguyễn Thị Thanh T; Sinh năm 2002.

Trú tại: Tổ 41, phường HQ, quận NHS, Tp. Đ. (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Do không có tiền tiêu xài nên Nguyễn Hữu V nảy sinh ý định đi trộm xe máy của người dân bán lấy tiền. Thực hiện ý định trên, khoảng 17 giờ 00 phút ngày 22/6/2023, V điều khiển xe môtô gắn BKS: 43G1- xxxxx mang theo 01 cây đoản bẻ khóa bằng kim loại, 01 cái cờ lê 8 và 01 chìa khoá bằng kim loại (loại khoá Việt Tiệp) chạy đến dãy phòng trọ cho thuê của chị Lê Đào Thị Ngọc T tại Khu đô thị 1A, thuộc khối phố C, phường Điện Ngọc, thị xã Đ, tỉnh Q thì phát hiện có xe máy của người dân đang để phía trước dãy phòng trọ không có người trông coi. Thấy điều kiện thuận lợi, V điều khiển xe môtô BKS: 43G1- xxxxx của mình đến dừng trước dãy phòng trọ quan sát. Sau đó, V đi bộ đến xe môtô BKS: 76F1 - xxxxx của anh Nguyễn Bảo T (sinh năm: 1998, trú: thôn XB, xã HT, huyện NH tỉnh QNg). Lúc này, V dùng cây đoản và cái cờ lê 8 mang theo bẻ ổ khóa xe môtô của anh T. Sau khi bẻ khóa được, V đi bộ ra xe môtô của mình điều khiển chạy đến để trước hàng rào nhà bà Đặng Thị Bích H rồi chạy bộ qua vị trí xe môtô BKS: 76F1 - xxxxx khởi động chạy ra khu vực phường Hoà Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng để trước một nhà dân tìm cơ hội tiêu thụ. Sau đó, V quay lại phường Điện Ngọc đến vị trí để xe môtô BKS: 43G1- xxxxx để lấy về thì bị Công an phường Điện Ngọc mời về làm việc.

Theo Kết luận định giá tài sản số 56/HĐ.ĐG, ngày 23 tháng 6 năm 2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Đ xe môtô hiệu Yamaha Sirius BKS: 76F1 - xxxxx có giá trị 8.050.000 đồng.

Ngoài lần trộm cắp như trên, Nguyễn Hữu V còn thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản tại địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: ngay sau khi trộm cắp xe xe môtô BKS: 76F1-xxxxx, V chạy về khu vực gần trường Đại học FPT thuộc phường Hoà Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng để trước một nhà dân. Lúc này, V tiếp tục đi bộ được khoảng 30m thì phát hiện xe môtô hiệu Yamaha Jupiter BKS: 73E1- xxxxx của anh Đinh Huy H (Sinh năm: 2004; trú: Khu đô thị FPT, Đà Nẵng) không người trông coi nên V dùng đoản bẻ khoá điều khiển xe nói trên chạy đến vị trí để xe môtô BKS:

43G1- xxxxx để lấy về. Tuy nhiên, khi V đến nơi thấy có người dân tụ tập nên V chạy ra lại khu vực phường HQ, quận NHS, thành phố Đ.

Theo Kết luận định giá tài sản số 44/KL-HĐĐGTS, ngày 17 tháng 7 năm 2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Ngũ Hành Sơn xe môtô hiệu Yamaha Jupiter BKS: 73E1 - 049.68 có giá trị 6.600.000 đồng.

Vụ thứ hai: ngay sau khi không lấy được xe môtô BKS: 43G1- xxxxx, V điều khiển xe mô tô BKS: 73E1- xxxxx chạy về lại Đà Nẵng. Trên đường đi, xe Jupiter BKS: 73E1- xxxxx hết xăng nên V dựng xe trên lề đường thuộc phường Hoà Quý, quận Ngũ Hành Sơn, V đi bộ một đoạn thì phát hiện xe môtô nhãn hiệu Yamaha Sirius BKS: 92E1- xxxxx của chị Nguyễn Thị Thanh T (Sinh năm: 2002; trú: phường HQ, quận NHS,TP Đ) không người trông coi nên V lấy chìa khoá mang theo bẻ khoá trộm cắp xe này chạy vào lại phường Điện Ngọc. Khi vào đến phường Điện Ngọc, V gọi điện cho Huỳnh Kim H (sinh năm: 1987; trú: khối phố Ngân Giang, phường Điện Ngọc, thị xã Đ) nhờ H chở đến khối phố Câu Hà lấy xe môtô BKS: 43G1- xxxxx thì H đồng ý. Sau đó, V điều khiển xe môtô BKS:

92E1- xxxxx đến giao cho H chở V đi. Khi đến gần vị trí xe môtô BKS: 43G1- xxxxx thì H điều khiển xe đi trước còn V đi bộ đến xe môtô BKS: 43G1- xxxxx chuẩn bị chạy đi thì bị Công an phường Điện Ngọc giữ lại mời về làm việc.

Theo Kết luận định giá tài sản số 44/KL-HĐĐGTS ngày 17 tháng 7 năm 2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Ngũ Hành Sơn xe môtô hiệu Yamaha Sirius BKS: 92E1 – xxxxx có giá trị 12.000.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản Nguyễn Hữu V trộm cắp theo định giá là 26.650.000 đồng.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Đ đã tạm giữ và xử lý những vật chứng sau:

- 01 (một) đoản bẻ khóa bằng kim loại dài 5,5cm (thân hình lục giác dài 3,5cm, một đầu dẹp dài 02cm); 01 (một) cờ lê 8 bằng kim loại dài 13cm; 01 (một) chìa khóa nhà bằng kim loại; 01 (một) ĐTDĐ hiệu Oppo có gắn sim số 090588xxxxx và 076852xxxxx; 01 (một) đồng hồ đeo tay bằng kim loại, phía sau có dòng chữ EDIFICE CASIO; 01 (một) mũ bảo hiểm, dạng mũ lưỡi trai bị bể nứt; 01 (một) khẩu trang đã qua sử dụng.

Trong quá trình điều tra, truy tố Nguyễn Hữu V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu, chứng cứ và các lời khai khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số 112/CT-VKS, ngày 27 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đ, tỉnh Q đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu V về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm r,s khoản 1Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu V với mức án từ 2 năm đến 2 năm 6 tháng tù.

- Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:

Trả lại cho Nguyễn Hữu V 01 đồng hồ đeo tay có dòng chữ EDIFCE CASIO.

Tịch thu tiêu hủy 01 đoản bẻ khóa bằng kim loại dài 5,5cm( thân hình lục giác dài 3,5cm, một đầu dẹp dài 2cm); 01 cờ lê 8 bằng kim loại dài 13cm; 01 chìa khóa nhà bằng kim loại, 01 khẩu trang đã qua sử dụng, 01 mũ bảo hiểm.

Tịch thu sung công quỹ 01 điện thoại di động hiệu OPPO,sim số 090588xxxxx và 076852xxxxx;

Thu giữ 02 đĩa DVD ghi lại hành vi trộm cắp của bị cáo để lưu cùng hồ sơ vụ án.

- Về trách nhiệm Dân sự: Các bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, dó đó các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt của bị hại tại phiên tòa: Các bị hại đã có lời khai tại hồ sơ vụ án, trách nhiệm dân sự đã giải quyết xong các bị hại không có yêu cầu gì khác nên việc vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Chiều ngày 22/6/2023 Nguyễn Hữu V điều khiển xe môtô BKS: 43G1- xxxxx mang theo 01 đoản bẻ khoá, 01 cờ lê 8 và 01 chìa khoá từ thành phố Đà Nẵng vào thị xã Đ nhằm mục đích trộm cắp xe máy của người dân. Đến khoảng 18 giờ 00 phút, cùng ngày tại dãy nhà trọ cho thuê của chị Lê Đào Thị Ngọc T thuộc khối phố CH, phường ĐN, thị xã Đ, tỉnh Q, V đã có hành vi lén lút trộm cắp xe môtô BKS: 76F1-xxxxx của anh Nguyễn Bảo T chạy về thành phố Đà Nẵng. Sau đó, V tiếp tục trộm cắp xe môtô BKS: 73E1 – xxxxx của anh Đinh Huy H tại phường Hoà Hải và xe môtô BKS: 92E1 – 592.50 của chị Nguyễn Thị Thanh T tại phường Hoà Quý, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.

Tổng giá trị tài sản trộm cắp theo định giá là 26.650.000 đồng.

Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017) như Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đ, tỉnh Q và quan điểm luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi trộm cắp của bị cáo đã gây mất an ninh, trật tự tại địa phương, gây tâm lý bất an trong quần chúng nhân dân, xâm phạm quyền sỡ hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ.

Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy: bị cáo thực hiện hành vi phạm tội 02 lần trở lên đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năng, hối cải về hành vi phạm tội của mình. Ngoài ra bị cáo còn tự thú về hành vi phạm tội của mình. Với những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã nêu trên, HĐXX thống nhất áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 BLHS xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 21/7/2005, bị Tòa phúc thẩm TANDTC tại Đà Nẵng xử phạt 01 năm tù về tội “Cướp tài sản”, đã chấp hành xong; Ngày 06/3/2021 bị UBND phường Mỹ An ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường thời hạn 6 tháng, chấp hành xong ngày 06/9/2021nhưng không chịu tự tu dưỡng, rèn luyện bản thân trở thành người tốt, mà còn tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên cần thiết phải có thời gian giáo dục, cải tạo đối với bị cáo tại các cơ sở giam giữ.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản. Do đó, Hội đồng xét xử thống nhất không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS, Hội đồng xét xử thống nhất:

Trả lại cho Nguyễn Hữu V 01 đồng hồ đeo tay có dòng chữ EDIFCE CASIO.

Tịch thu tiêu hủy 01 đoản bẻ khóa bằng kim loại dài 5,5cm( thân hình lục giác dài 3,5cm, một đầu dẹp dài 2cm); 01 cờ lê 8 bằng kim loại dài 13cm; 01 chìa khóa nhà bằng kim loại, 01 khẩu trang đã qua sử dụng, 01 mũ bảo hiểm.

Tịch thu sung công quỹ 01 điện thoại di động hiệu OPPO, sim số 090588xxxxx và 076852xxxxx;

Thu giữ 02 đĩa DVD ghi lại hành vi trộm cắp của bị cáo để lưu cùng hồ sơ vụ án.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác nên HĐXX không xem xét.

[7] Các vấn đề khác: tiếp tục tạm giữ xe môtô BKS: 43G1- xxxxx để xác minh rõ nguồn gốc xửu lý sau.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HS-ST theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu V 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam (ngày 23/6/2023).

Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

- Trả lại cho Nguyễn Hữu V 01 đồng hồ đeo tay có dòng chữ EDIFCE CASIO.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 đoản bẻ khóa bằng kim loại dài 5,5cm( thân hình lục giác dài 3,5cm, một đầu dẹp dài 2cm); 01 cờ lê 8 bằng kim loại dài 13cm; 01 chìa khóa nhà bằng kim loại, 01 khẩu trang đã qua sử dụng, 01 mũ bảo hiểm.

- Tịch thu sung công quỹ: 01 điện thoại di động hiệu OPPO, sim số 090588xxxxx và 076852xxxxx.

(Tt cả các vật chứng trên được mô tả tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/10/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Đ và Chi cục thi hành án Dân sự thị xã Đ).

- Thu giữ 02 đĩa DVD ghi lại hành vi trộm cắp của bị cáo để lưu cùng hồ sơ vụ án.

Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 buộc bị cáo Nguyễn Hữu V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng bị hạivắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết, tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 110/2023/HS-ST

Số hiệu:110/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Điện Bàn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:23/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về