Bản án về tội trộm cắp tài sản số 110/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ KINH MÔN, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 110/2021/HS-ST NGÀY 10/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 122/2021/TLST- HS ngày 15 tháng 11 năm 2021, theo quyết định đưa ra xét xử số 108/2021/QĐXXST- HS ngày 30 tháng 11 năm 2021 đối với:

1. Bị cáo Nguyễn Văn V, sinh năm 1975; Nơi ĐKHKTT và cư trú tại: Thôn 1, HA, Thị xã KM, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa:

04/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Bố là ông Nguyễn Văn P (đã mất) và mẹ là bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1957; vợ là Nguyễn Thị L1, sinh năm 1977 và có hai con, lớn sinh năm 1998, nhỏ sinh năm 2001. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân:

- Bản án số 03/2008/HSST ngày 25/01/2008 của TAND huyện Kinh Môn (này là TAND thị xã Kinh Môn), tỉnh Hải Dương xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thứ thách 18 tháng về tội Trộm cắp tài sản. Ngày 14/5/2009, V chấp hành xong phần thi hành án dân sự của bản án.

- Bản án số 62/2017/HSST ngày 29/8/2017 của TAND huyện Kinh Môn (nay là TAND thị xã Kinh Môn), tỉnh Hải Dương xử phạt Nguyễn Văn V 30 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Ngày 18/01/2019, V chấp hành xong hình phạt tù. Ngày 07/11/2017, chấp hành xong phần thi hành án dân sự của bản án Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 06/10/2021 đến ngày 08/10/2021 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương đến nay (Có mặt tại phiên tòa).

2. Người bị hại: Chị Lương Lệ N, sinh năm 1987 và anh Vũ Văn T, sinh năm 1984; Địa chỉ: KDC số 7, phường PT, thị xã KM, tỉnh Hải Dương; (Vắng mặt, có đề nghị xét xử vắng mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 21 giờ ngày 05/10/2021, Nguyễn Văn V đến Trung tâm y tế thị xã KM (cơ sở 2) ở phường AL, thị xã KM, tỉnh Hải Dương để chăm sóc anh Nguyễn Văn T1, sinh năm 1985, ĐKHK: TX, phường TT, thị xã KM, tỉnh Hải Dương đang nằm điều trị tại phòng bệnh số 309 của khoa Ngoại. Khoảng 22 giờ cùng ngày, V đi qua phòng bệnh nhân số 315, thấy cửa phòng khép hờ, điện trong phòng tắt, V nảy sinh ý định vào trộm cắp tài sản, nên đã mở cửa đi vào trong phòng 315, thấy không có ai và tại vị trí chân giường thứ 3 (nhìn từ ngoài cửa vào) có 01 chiếc túi xách màu đen (là của vợ chồng chị Lương Lệ N, sinh năm 1987 và anh Vũ Văn T, sinh năm 1984, ĐKHK: Khu dân cư số 7, phường PT, thị xã KM, tỉnh Hải Dương). V lấy chiếc túi xách đi ra khu nhà vệ sinh nam ở tầng 3, mở túi kiểm tra thấy bên trong có 01 chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu DELL, loại core (TM) i5- 6200U CPU, Ram 8.000GB tên máy 21AK22-com, màu đen. V lấy chiếc máy tính và để lại chiếc túi xách trong nhà vệ sinh nam, rồi đem giấu chiếc máy tính vào trong bụi cây ở khu vườn cây trước dãy nhà Khoa Ngoại.

Đến khoảng 03 giờ ngày 06/10/2021, V ra lấy chiếc máy tính đem về nhà cất giấu trong phòng ngủ bỏ trống của gia đình. Sau đó V quay lại Trung tâm y tế thị xã KM để chăm sóc anh T1. Khi đến nơi, V biết chị N đã phát hiện bị mất trộm, tìm được chiếc túi xách màu đen trong nhà vệ sinh nam và đã làm đơn trình báo, giao nộp chiếc túi xách cho Công an thị xã Kinh Môn, cơ quan công an đã đến điều tra. V biết sẽ bị phát hiện, nên khoảng 14 giờ cùng ngày, V đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị Kinh Môn đầu thú khai báo về hành vi phạm tội và giao nộp chiếc máy tính nêu trên.

Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 02 ngày 06/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thị xã Kinh Môn kết luận: 01 máy tính xách tay nhãn hiệu DELL, loại core (TM) i5-6200U CPU, Ram 8.000GB tên máy 21AK22-com màu đen giá trị còn lại là 5.760.000 đồng và 01 túi xách màu đen gắn nhãn Dell (đựng máy tính), kích thước (30x40x80)cm giá trị còn lại là 138.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là: 5.898.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 109/CT - VKS ngày 15/11/2021, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kinh Môn đã truy tố bị Nguyễn Văn V về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện VKSND thị xã Kinh Môn giữ nguyên quyết định truy tố; Đề nghị về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn V phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm a, r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí; Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Đề nghị về hình phạt: xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V từ 07 (bảy) đến 10 (mười) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 06/10/2021, không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung. Đề nghị xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo theo quy định của pháp luật.

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu và đề nghị HĐXX xem xét khoan hồng xử cho bị cáo một hình phạt nhẹ để bị cáo sớm về với gia đình để chăm sóc mẹ già, con nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an thị xã Kinh Môn; Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kinh Môn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. [2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, lời khai của người bị hại, vật chứng đã thu giữ, kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu, chứng cứ khác do Cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 22 giờ ngày 05/10/2021, tại phòng bệnh nhân số 315 thuộc Khoa Ngoại của Trung tâm y tế thị xã KM (cơ sở 2) ở phường AL, thị xã KM, tỉnh Hải Dương, Nguyễn Văn V đã có hành vi trộm cắp của chị Lương Lệ N và anh Vũ Văn T 01 chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu DELL, loại core (TM) i5-6200U CPU, Ram 8.000GB tên máy 21AK22- com màu đen và 01 túi xách màu đen gắn nhãn Dell (đựng máy tính), kích thước (30x40x80) cm, tổng giá trị tài sản là 5.898.000 đồng.

[3] Về tội danh và điều khoản truy tố: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vì tham lam nhất thời mà bị cáo đã lợi dụng sơ hở, lén lút chiếm đoạt chiếc máy tính xách tay của người khác, trị giá 5.898.000 đồng, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được luật hình sự bảo vệ là đã đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản theo định khung quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do vậy, việc truy tố, xét xử bị cáo theo tội danh, điều luật đã viện dẫn là có căn cứ, đúng người đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Về tính chất, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Hành vi phạm tội của bị cáo mang tính giản đơn, lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu để trộm cắp tài sản, nhưng bị cáo là người có nhân thân không tốt, do đã nhiều lần bị xét xử về tội trộm cắp tài sản, mặc dù đã được xóa án tích, nhưng vẫn chưa cho thấy có sự cải tạo tốt về ý thức pháp luật, nên cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, mới có tác dụng giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật của bị cáo. Trong vụ án này bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng TNHS. Quá trình điều tra, khi chưa phát hiện được chủ thể thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã ăn năn hối cải, tự mình ra trình báo, khai báo thành khẩn với cơ quan điều tra về hành vi phạm tội của mình và giao nộp tài sản trộm cắp được. Vì vậy, người bị hại đã có đơn đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên cần áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm a, r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Trên cơ sở đó, HĐXX cân nhắc quyết định mức hình phạt tù tương xứng đối với bị cáo, mới có tác dụng răn đe, giáo dục với bị cáo và phòng ngừa chung. [5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định, bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo là đối tượng không có công việc và thu nhập ổn định, nên không phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: tài sản bị trộm cắp không bị hỏng hóc gì, người bị hại không yêu cầu bồi thường. Nên HĐXX không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng: Theo quy định Khoản 2 Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự và khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Cơ quan điều tra đã trả lại chị Lương Lệ N 01 máy tính xách tay nhãn hiệu DELL và 01 túi xách màu đen gắn nhãn Dell là phù hợp.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm a, r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, khoản 2 Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự; khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Xử:

1/ Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn V phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

2/ Về hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V 08 (tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 06/10/2021;

3/ Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn V phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm;

5/ Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, vắng mặt bị hại. Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày tuyên án, bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 110/2021/HS-ST

Số hiệu:110/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Kinh Môn - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về