Bản án về tội trộm cắp tài sản số 109/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 109/2022/HS-ST NGÀY 27/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 9 năm 2022 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố B (TP. B), tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 103/2022/HSST ngày 07 tháng 9 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 96/2022/QĐXXST- HS ngày 12 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Minh T; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; sinh năm: 1982; tại: Tp. Hồ Chí Minh; NĐKNKTT và cư trú: Số K đường N, thôn Á, xã L, TP. B, tỉnh Lâm Đồng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; trình độ văn hóa: 01/12; nghề nghiệp: Không; con ông: Nguyễn Thanh S và bà: Đặng Thị Bích H; vợ: Chưa có; có 01 người con sinh năm 2010;

Tiền án: Ngày 29/11/2019 T bị Tòa án nhân dân TP. B xử phạt 15 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số 153/2019/HS-ST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/12/2020, hiện chưa được xóa án tích;

Tiền sự: Ngày 23/3/2021 T bị UBND xã L, TP. B áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn trong thời hạn 03 tháng theo hình thức cai nghiện ma túy tại gia đình tại Quyết định số 84/QĐ-UBND;

Nhân thân:

Ngày 27/5/2016 T bị Tòa án nhân dân TP. B xử phạt 15 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số 42/2016/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 19/3/2017;

Ngày 17/5/2022 bị Tòa án nhân dân huyện B xử phạt 05 năm tù về tội Cướp giật tài sản, theo bản án số 31/2022/HSST. Vụ án được xét xử sau khi bị cáo thực hiện hành vi phạm tội vào ngày 15/12/2021 nên không bị xem là có tiền án. Bị cáo đang chấp hành án tại Trại giam Đ, có mặt.

- Bị hại:

1. Anh Hồ Văn S, sinh năm 1975; trú tại: Số M, đường T, Thôn K, xã Đ, TP. B, tỉnh Lâm Đồng, vắng mặt.

2. Anh P H Đắc D, sinh năm 1972; trú tại: Số J đường P, phường L, TP. B, tỉnh Lâm Đồng, vắng mặt.

3. Anh Tống nhật H, sinh năm 1976; trú tại: Số F đường P, phường LTP. B, tỉnh Lâm Đồng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Minh T đã có tiền án về tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích. Trong khoảng thời gian từ ngày 19/09/2021 đến ngày 15/12/2021, Nguyễn Minh T đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản tại địa bàn Tp.B, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 08 giờ ngày 19/9/2021 Nguyễn Minh T điều khiển xe mô tô 49M6-X đến nhà ông Nguyễn Văn S, tại địa chỉ số N đường T, Thôn M, xã Đ, TP. B, thấy cửa mở không có người trông coi nên T đi bộ vào phòng khách lấy trộm được 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo U10 của ông S mang ra ngoài. Sau đó T đi đến khu vực đường tránh thuộc xã L, TP. B thì gặp 01 người đàn ông (Không rõ lai lịch) và bán điện thoại trộm cắp của ông S được 1.000.000 đồng. Số tiền có được, T đã tiêu xài cá nhân và mua ma túy sử dụng hết. Cơ quan điều tra không xác định được đối tượng đã mua điện thoại nhãn hiệu Vivo U10 từ Nguyễn Minh T nên không thu hồi được.

Theo Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 127 ngày 05/10/2021 của Hội đồng định giá TP. B xác định: Trị giá tài sản mà Nguyễn Minh T trộm cắp của ông Nguyễn Văn Sĩ là 1.583.000 đồng.

Hiện nay Cơ quan điều tra đã thu giữ và trả lại xe mô tô biển số 49M6 – X cho chủ sở hữu hợp pháp là bà Đặng Thị Bích H.

Vụ thứ hai: Vào khoảng 16 giờ ngày 15/12/2021, T điều khiển xe mô tô biển số 49M1-X đến nhà ông P H Đắc D, trú tại số J đường P, phường L, Tp.B, thấy không có người trông coi nên T dựng xe trước cửa đi bộ ở đường luồn bên hông vào nhà bếp. T lấy trên bàn ăn được 01 ĐTDĐ nhãn hiệu SamSung Galaxy A21s màu xanh bỏ vào túi áo rồi đi ra ngoài. Lúc này ông D từ trong nhà đi ra thấy vậy nên đuổi theo đến khu vực đường luồn thì giữ được T lại nên T lấy điện thoại trả lại cho ông D. T xin tha nhưng anh D không đồng ý và gọi con trai là P H Nhật Tr và con gái P H Thảo L ra hỗ trợ. Thấy vậy T bỏ chạy được ra ngoài leo lên xe nhưng bị ông D đánh ngã nên T để lại xe mô tô biển số 49M1-X cùng 01 đôi dép bằng da màu đen và bỏ chạy về nhà.

Kết luận số 03 ngày 10/01/2022 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự Tp.Bảo Lộc xác định: 01 ĐTDĐ nhãn hiệu SamSung Galaxy A21s của anh P H Đắc D trị giá 2.683.000 đồng.

Ngoài ra trong khoảng thời gian tháng 12/2021 Nguyễn Minh T còn 02 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản khác nhưng chưa đủ căn cứ cấu thành tội phạm, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Khoảng 14 giờ một ngày đầu tháng 12/2021, T điều khiển xe mô tô biển số 49M1-X đến 01 nhà dân tại phường L, Tp B (Không xác định được địa chỉ) lấy trộm được 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Realme màu xanh đen (Không xác định được chủng loại), rồi mang đến khu vực đường P, phường L, Tp.B bán cho 01 đối tượng tên T (Không rõ lai lịch) với giá 1.000.000 đồng. Hiện nay Cơ quan điều tra không thu hồi được tài sản. Số tiền có được bị cáo đã mua ma túy sử dụng hết.

Cơ quan điều tra đã tiến hành đưa T đi xác định hiện trường nhưng bị cáo không xác định được nơi trộm cắp tài sản. Công an phường L, Tp.B và Cơ quan điều tra không ghi nhận được đơn trình báo nào của người dân liên quan đến vụ việc nên không có căn cứ xác định người bị hại. Do không thu hồi được tài sản, nên không có căn cứ xác định chủng loại đặc điểm tài sản, Cơ quan điều tra tách ra giải quyết sau khi có căn cứ.

Lần thứ hai: Khoảng 15 giờ ngày 10/12/2021, T điều khiển xe mô tô biển số 49M1-X đến nhà anh Tống nhật H, tại địa chỉ số K đường P, phường L, TP. B, lấy trộm được 01 ĐTDĐ nhãn hiệu OPPO A3S và mang đến khu vực bệnh viện y học cổ truyền Tp.B bán cho 01 đối tượng (Không rõ lai lịch) với giá 650.000 đồng. Hiện nay Cơ quan điều tra không thu hồi được tài sản. Số tiền có được bị cáo đã mua ma túy sử dụng hết.

Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 03 ngày 10/01/2022 của Hội đồng định giá Tp.Bảo Lộc đã từ chối định giá đối với ĐTDĐ nhãn hiệu OPPO A3S màu xanh đen của anh Tống nhật H do không xác định được đặc điểm của tài sản.

Cơ quan điều tra đã tạm giữ và trả lại 01 ĐTDĐ nhãn hiệu SamSung Galaxy A21 cho ông P H Đắc D. Hiện nay Cơ quan điều tra đang tạm giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Ultimo biển số 49M1-X và 01 đôi dép bằng da màu đen, trên dép có ghi dòng chữ “Hà Fashion Shoes” màu vàng là các tài sản mà bị cáo bỏ lại tại hiện trường.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi sự việc xảy ra, Nguyễn Minh T đã tác động gia đình bồi thường cho ông Nguyễn Văn S số tiền 1.700.000 đồng, nên ông S đã tự nguyện làm đơn xin đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và không yêu cầu gì khác về bồi thường dân sự. Ngoài ra, ông P H Khắc D và anh Tống nhật H không có yêu cầu bồi thường dân sự.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng đã nêu, không thắc mắc khiếu nại đối với nội dung Bản cáo trạng.

Bản Cáo trạng số 120/CT-VKSBL ngày 05 tháng 9 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân TP. B, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Nguyễn Minh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s Khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo T từ 30 đến 36 tháng tù và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về Dân sự: Bị hại không yêu cầu gì thêm nên đề nghị không xem xét. Về xử lý vật chứng: Đối với 01 xe mô tô, nhãn hiệu Yamaha, biển số: 49M1-X, số máy: P82-003123, số khung: RLCM4P8207Y003123 chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp, cần giao cho Cơ quan CSĐT Công an thành phố B tiếp tục xác minh, xử lý theo thẩm quyền. Đối với 01 đôi dép bằng da màu đen, trên dép có ghi dòng chữ “ Hà Fashion Shoes” màu vàng, tại phiên tòa bị cáo không đồng ý nhận lại nên đề nghị tịch thu tiêu hủy. Buộc bị cáo T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo T xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an TP. B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP. B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về căn cứ xác định tội: Nguyễn Minh T đã có tiền án về tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích; trong khoảng thời gian từ ngày 19/9/2021 đến ngày 15/12/2021 tại địa bàn thành phố B, T đã có hành vi trộm cắp 01 ĐTDĐ nhãn hiệu SamSung Galaxy A21s trị giá 2.683.000 đồng của anh P H Đắc D và 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Vivo trị giá 1.583.000 đồng của ông Nguyễn Văn S, với tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 4.266.000 đồng. Đối chiếu lời khai của bị cáo, bị hại, kết luận định giá tài sản có đủ căn cứ khẳng định hành vi của bị cáo T đã phạm vào tội tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự;

[3] Về tính chất, mức độ, hậu quả hành của vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện thái độ coi thường pháp luật, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy, cần áp dụng cho các bị cáo một hình phạt nghiêm khắc để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân xấu; khi phạm tội có 01 tiền án và 01 tiền sự; hai lần phạm tội nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; bồi thường thiệt hại; bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên được áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Xét thấy: Cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[5] Hiện bị cáo T đang chấp hành hình phạt tại bản án số 31/2022/HSST ngày 17/5/2022 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lâm Đồng, do vậy cần tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt của bản án số 31/2022/HSST ngày 17/5/2022 của Tòa án nhân dân huyện B, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 xe mô tô, nhãn hiệu Yamaha, biển số: 49M1- X, số máy: P82-003123, số khung: RLCM4P8207Y003123 chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp, cần giao cho Cơ quan CSĐT Công an thành phố B tiếp tục xác minh, xử lý theo thẩm quyền. Đối với 01 đôi dép bằng da màu đen, trên dép có ghi dòng chữ “ Hà Fashion Shoes” màu vàng là tài sản cá nhân của bị cáo, tại phiên tòa bị cáo không yêu cầu được nhận lại, xét tài sản nêu trên có giá trị không lớn cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T 02 (Hai) năm, 06 (Sáu) tháng tù, tổng hợp với hình phạt 05 (Năm) năm tù tại bản án số 31/2022/HSST ngày 17/5/2022 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lâm Đồng, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày 08/01/2022.

2/ Xử Lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 đôi dép bằng da màu đen, trên dép có ghi dòng chữ “ Hà Fashion Shoes” màu vàng.

Giao cho Cơ quan CSĐT Công an thành phố B tiếp tục xác minh, xử lý theo thẩm quyền 01 xe mô tô, nhãn hiệu Yamaha, biển số: 49M1-X, số máy: P82- 003123, số khung: RLCM4P8207Y003123.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/8/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B với Chi cục thi hành án dân sự thành phố B).

3/ Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo T phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo, bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc ngày niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

73
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 109/2022/HS-ST

Số hiệu:109/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về