Bản án về tội trộm cắp tài sản số 109/2021/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀI ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 109/2021/HSST NGÀY 19/10/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 121/HSST ngày 05 tháng 10 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Trần Ngọc T, sinh năm 1989; HKTT và nơi ở: Thôn L, xã Y, huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; Con ông: Trần Ngọc TH; con bà: Hà Thị Đ; có vợ là Triệu Thị A; có 02 con nhỏ; tiền án, tiền sự: Không ; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/9/2021 đến ngày 13/9/2021 áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú - bị cáo tại ngoại có mặt.

2. Dương Tiến N, sinh năm 1991; HKTT và nơi ở: Thôn L, xã Y, huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 6/12; Con ông: Dương Tiến L; con bà: Nguyễn Thị T; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/9/2021 đến ngày 13/9/2021 áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú - bị cáo tại ngoại có mặt.

Nguyên đơn dân sự: Công ty cổ phần NB; Địa chỉ: T8, tòa nhà hỗn hợp SĐ, đường T, phường V, quận H, thành phố Hà Nội- Đại diện theo ủy quyền là ông Ngô Thanh P - Vắng mặt có lý do

NỘI DUNG VỤ ÁN

Do không có tiền tiêu xài cá nhân nên khoảng 21 giờ ngày 09/09/2021, Trần Ngọc T cùng Dương Tiến N rủ nhau đi trộm cắp tài sản. Sau đó, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển số 88C - 174.73 chở N đi trên đường đê Tả Đáy xem có ai sơ hở để trộm cắp tài sản. Khi đi đến Km 9+30 đường đê TĐ thuộc thôn T, xã Y, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội thì T và N thấy cột đèn cao áp chưa có điện, đường vắng không có ai, T dựng xe ở dốc đá, mở cốp lấy một chiếc kìm và một chiếc lục bằng kim loại đưa cho N, N dùng chiếc lục (tô vít 6 cạnh) đi đến cột đèn cao áp (cách vị trí dựng xe khoảng 15 mét) mở nắp hai cột đèn ở gần nhau rồi dùng kìm cắt hai đầu dây điện màu đen nối hai cột đèn cao áp của Công ty cổ phần NB. Sau đó, T cùng N cuộn đoạn dây điện lại, bê ra vị trí để xe mô tô. Lúc này, anh Nguyễn Đình H.U, anh Nguyễn Đình H, anh Nguyễn Đình C, anh Nguyễn Đức Th các anh đều ở thôn T, xã Y, Hoài Đức, Hà Nội đang ở trong vườn cạnh đó phát hiện và báo cho lực lượng Công an xã Y. Sau đó, anh H.U, H, C, Th chạy đến khống chế T và N. Đúng lúc này, lực lượng Công an xã Y đi tới, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng 01 (một) đoạn dây cáp điện màu đen dài 32,9 (ba mươi hai phầy chín) mét, trên dây có chữ “CADI-SUN ELECTRIC CABLE 0,6/1KV Cu/XLPE/PVC CXV 40 x 16 SQMM”; 01 (một) chiếc lục sáu cạnh hình chữ “L” bằng kim loại sáng màu, một chiều dài 7 cm, một chiều dài 3,5 cm, dày 0,6 cm; 01 (một) chiếc kìm quặp bằng kim loại dài 23,5 cm, phần tay cầm bọc nhựa màu đen; 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX 110 màu đỏ đen, biển số 88C1-174.73, số khung 0310267, số máy 169608.

Kết luận định giá tài sản số 396/KL-HĐĐGTS kết luận: 01 (một) đoạn dây cáp điện màu đen dài 32,9 (ba mươi hai phầy chín) mét, trên dây có chữ “CADI- SUNELECTRIC CABLE 0,6/1KV Cu/XLPE/PVC CXV 4C x 16 SOMM” trị giá 4.879.000 đồng (Bốn triệu tám trăm bảy mươi chín nghìn đồng). Công thay thế, sửa chữa lắp đặt lại là 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng).

Tổng giá trị tài sản trộm cắp là: 5.279.000 đồng (Năm triệu hai trăm bảy mươi chín nghìn đồng)

Bản Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 01/QĐ-VKSHĐ ngày 04 tháng 10 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoài Đức quyết định truy tố Trần Ngọc T, Dương Tiến N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như bản quyết định đã truy tố. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa đã luận tội, xem xét toàn diện các chứng cứ có trong hồ sơ, thông qua việc xét hỏi, tranh luận công khai tại phiên tòa đã kết luận: Do không có tiền tiêu xài cá nhân, đến khoảng 21 giờ ngày 09/09/2021, bị cáo Trần Ngọc T cùng Dương Tiến N rủ nhau đi trộm cắp tài sản; khi đến Km 9+30 đường đê TĐ thuộc thôn T, xã Y, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội các bị cáo dùng kìm cắt trộm 01 (một) đoạn dây cáp điện màu đen dài 32,9 trị giá 4.879.000 đồng; Công thay thế, sửa chữa lắp đặt lại là 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng). Tổng giá trị tài sản trộm cắp là: 5.279.000 đồng (Năm triệu hai trăm bảy mươi chín nghìn đồng). Hành vi của các bị cáo là có đủ dấu hiệu cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Do vậy, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố về hành vi phạm tội của các bị cáo; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, Điều 65; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, tuyên phạt bị cáo Trần Ngọc T và Dương Tiến N mức án từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thứ thách 12-18 tháng; giao các bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát giáo dục; tịch thu tiêu hủy 01 chiếc lục giác 06 cạnh; 01 kìm quặp; trả lại cho chị A chiếc xe máy; bị cáo không có công ăn việc làm ổn định nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền; buộc các bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến phát biểu quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Công an huyện Thanh trì, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Đến thời điểm mở phiên tòa không có người tham gia tố tụng nào có khiếu nại. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Tài sản các bị cáo trộm cắp của Công ty cổ phần NB hiện đang thi công và chưa bàn giao, chưa làm hồ sơ vào danh mục Công trình quan trọng an ninh Quốc gia Hội đồng xét xử nhận định về hành vi phạm tội của bị cáo như sau {1} Do không có tiền tiêu xài cá nhân, đến khoảng 21 giờ ngày 09/09/2021, bị cáo Trần Ngọc T cùng Dương Tiến N rủ nhau đi trộm cắp tài sản; khi đi đến Km 9+30 đường đê TĐ thuộc thôn T, xã Y, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội các bị cáo quan sát thấy không có ai liền dùng kìm cắt trộm 01 (một) đoạn dây cáp điện màu đen dài 32,9 có trị giá 4.879.000 đồng. Hành vi các bị cáo quan sát thấy không có người rồi lén lút dùng kìm thực hiện việc cắt trộm dây điện là có đủ dấu hiệu cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do vậy, cần có mức án nghiêm khắc đối với các bị cáo. Tuy nhiên, khi xem xét đến lượng hình Hội đồng xét xử đánh giá tính chất, vai trò, mức độ nguy hiểm của hành vi người phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của vụ án, thấy:

Tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Vì không có tiền ăn tiêu mà cả hai bị cáo cùng bàn nhau đi trộm cắp tài sản. Các bị cáo đã quan sát, lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác, thể hiện sự táo tợn và coi thường luật pháp của các bị cáo; đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được luật hình sự bảo vệ; gây mất trật tự trị an cho xã hội, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Trong khi, các bị cáo có đầy đủ năng lực nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của mình là bất hợp pháp và vi phạm pháp luật nghiêm trọng; đã xâm phạm trực tiếp đến quyền quản lý tài sản của người khác được luật hình sự bảo vệ [3].

Xét nhân thân và tình tiết tăng nặng giảm nhẹ: Các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nhưng không chịu tu dưỡng bản thân để trở thành người có ích cho gia đình và cho xã hội, dịch bệnh có khó khăn mà các bị cáo không vượt được qua đã thực hiện hành vi trộm cắp. Tuy nhiên, sau khi phạm tội, các bị cáo đã bồi thường thiệt hại thỏa đáng cho Công ty; các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội của mình để các cơ quan tiến hành tố tụng nhanh kết thúc vụ án; tài sản các bị cáo chiếm đoạt không lớn và được thu hồi ngay; người bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đây được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Vật chứng: Nguyên đơn dân sự đã nhận lại đầy đủ tài sản không có ý kiến gì nên không xét. Chiếc xe máy nhãn hiệu Honđa Wave RSX 110 màu đỏ đen, biển số 88C1-174.73, số khung 0310267, số máy 169608 là tài sản của chị Triệu Thị A để ở nhà cho gia đình sử dụng , bị cáo lấy dùng vào việc phạm tội nên Hội đồng thống nhất trả lại cho gia đình chị A là hợp pháp;

Xét bị cáo có không có công ăn việc làm ổn định, nên miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo. Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Bị cáo, Nguyên đơn dân sự được quyền kháng cáo theo luật định.

Từ căn cứ trên, Hội đồng xét xử:

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 65; điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; tuyên bố bị cáo Trần Ngọc T và Dương Tiến N phạm tội “Trộm cắp tài sản”

Xử phạt: Trần Ngọc T 8 (tám) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo; hạn thử thách 16 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Xử phạt: Dương Tiến N 8 (tám) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo; hạn thử thách 16 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao các bị cáo cho UBND xã Y, huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách, trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.”Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đa cho hưởng án treo”.

2. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 332, Điều 333 và Điều 336 Bộ luật tố tụng hình sự; áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án

Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc lục sáu cạnh hình chữ L; 01 chiếc kìm quặp bằng kim loại; Trả lại cho gia đình chị Triệu Thị A chiếc xe máy nhãn hiệu Honđa Wave RSX 110 màu đỏ đen, biển số 88C1-174.73 (xe không rõ chất lượng).

Vật chứng hiện ở chi cục thi hành án dân sự huyện Hoài Đức theo biên bản bàn giao ngày 08/10/2021 Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm; Án xử sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Nguyên đơn dân sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được kết quả xét xử

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

351
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 109/2021/HSST

Số hiệu:109/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoài Đức - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về