TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 109/2020/HS-PT NGÀY 12/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 12/5/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 81/2020/TLPT-HS, ngày 25/3/2020 đối với bị cáo Vũ Kim K và đồng phạm về tội: “Trộm cắp tài sản”. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 09/2020/HS-ST, ngày 20/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk.
- Các bị cáo có kháng cáo:
1. Vũ Kim K, sinh năm 1986, tại tỉnh Thái Bình. Nơi cư trú: Thôn L, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: Không. Con ông Vũ Kim K và bà Trương Thị H; bị cáo có vợ là Ngô Thị Kim T và có 01 con sinh năm 2009; tiền án: Không.
Tiền sự: Có 01 tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản. Ngày 12/11/2018, bị Ủy ban nhân dân xã P ban hành Quyết định số 300/QĐ-XPHC xử lý vi phạm hành chính, mức phạt 1.500.000 đồng;
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14/10/2019 đến ngày 24/10/2019 được gia đình bão lĩnh (có mặt).
2. Nguyễn Ngọc S, sinh năm 1992, tại tỉnh Đắk Lắk. Nơi cư trú: Thôn T, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa giáo. Con ông Nguyễn Ngọc S và bà Nguyễn Thị T; bị cáo có vợ là Lê Thị Thủy T và có 02 con, lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2017;tiền sự: Không.
Tiền án: Có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản. Tại Bản án số 54/2015/HSPT ngày 09/02/2015, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 02 năm 06 tháng tù.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/10/2019 đến ngày 24/10/2019 được gia đình bão lĩnh, có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Ngọc S: Ông Nguyễn Tiến T – Trợ giúp viên pháp lý, thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đắk Lắk Địa chỉ: 306 N, Tp.B, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ ngày 14/10/2019, Vũ Kim K gọi điện thoại rủ Nguyễn Ngọc S đi bắt trộm chó lấy tiền tiêu xài thì S đồng ý. Sau đó, K điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 47E1-299.03 đến chở S mang theo 01 bao xác rắn màu đỏ, 01 cái cần có dây thòng lọng, 01 bình xịt hơi cay và 01 cuộn băng keo đen. S ngồi sau cầm dây thòng lọng để bắt chó. Khi đi đến đoạn đường thuộc thôn T, xã E1 cả hai phát hiện 01 con chó, lông vàng của gia đình anh Lê Đình N đang đi trên đường, K điều khiển xe mô tô áp sát, S ngồi sau dùng dây thòng lọng tròng vào cổ con chó rồi kéo lên xe, dùng băng keo cuốn quanh miệng và chân của con chó lại bỏ vào bao xác rắn. K tiếp tục điều khiển xe chở S đi theo hướng xã E. Khi đi đến đoạn đường thuộc thôn H, xã E, bằng hình thức và thủ đoạn như trên, K và S đã bắt được 01 con chó lông vàng của gia đình chị Lê Thị H và 01 con chó lông vàng của gia đình chị Nguyễn Thị Ánh N. Sau khi bắt được 03 con chó, K chở S đi theo hướng xã E thì bị Tổ công tác giao thông công an huyện K yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Thấy vậy, K điều khiển xe chở S bỏ chạy thì bị anh Lê Ngọc H và anh Phan Anh T đuổi theo đến lô cà phê của người dân ở Buôn N, xã E thì bị bắt giữ cùng toàn bộ vật chứng liên quan.
Vật chứng thu giữ: 03 con chó có tổng trọng lượng 41kg; 01 xe mô tô biển kiểm soát 47E1-299.03 nhãn hiệu Yamaha, số loại Exciter, dung tích xi lanh 134cm3; 01 bao xác rắn màu đỏ; 01 cần có dây thòng lọng; 01 bình xịt hơi cay; 01 cuộn băng keo đen và 04 viên đá kích thước (2x3x2)cm Tại Bản kết luận định giá tài sản số 81/KL-HĐĐGTS ngày 15/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Krông Năng kết luận: 03 con chó có tổng trọng lượng 41kg, có giá: 2.255.000 đồng Tại Bản kết luận định giá tài sản số 91/KL-HĐĐGTS ngày 25/11/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện K kết luận: 01 xe mô tô biển kiểm soát 47E1-299.03 nhãn hiệu Yamaha, số loại Exciter, dung tích xi lanh 134cm3 đã qua sử dụng có giá trị 9.000.000 đồng;
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2020/HS-ST ngày 20/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Vũ Kim K, Nguyễn Ngọc S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc S 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù, tính từ ngày bắt thi hành án. Được khấu trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày 15/10/2019 đến ngày 24/10/2019.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, h, s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS Xử phạt bị cáo Vũ Kim K 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù, tính từ ngày bắt thi hành án. Được khấu trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày 14/10/2019 đến ngày 24/10/2019.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 26/02/2020, bị cáo Vũ Kim K kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.
Ngày 03/3/2020, bị cáo Nguyễn Ngọc S kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng và bản án hình sự sơ thẩm.
Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét mức hình phạt 01 năm tù đối với bị cáo Vũ Kim K và 02 năm tù đối với bị cáo Nguyễn Ngọc S mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt đối với các bị cáo là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà các bị cáo gây ra. Bị cáo K có 01 tiền sự, bị cáo S có 01 tiền án đều về hành vi trộm chó, nhưng các bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà tiếp tục phạm tội. Tại cấp phúc thẩm, các bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ mới. Vì vậy, đề nghị HĐXX căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo - Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2020/HS-ST ngày 20/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo Nguyễn Ngọc S trình bày: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo S về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, xét mức hình phạt 02 năm tù đối với bị cáo S là có phần nghiêm khắc. Bởi lẽ, tài sản mà các bị cáo trộm cắp được có giá trị không lớn; sau khi phạm tội các bị cáo đã bồi thường cho các bị hại và được bị hại làm đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo khó khăn, thuộc hộ cận nghèo, trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế; bị cáo đang phải nuôi 02 con nhỏ. Do đó, đề nghị HĐXX áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo S. Trong trường hợp HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị cáo thì đề nghị Tòa án miễn toàn bộ án phí hình sự phúc thẩm cho bị cáo.
Bị cáo Nguyễn Ngọc S đồng ý với quan điểm bào chữa của trợ giúp viên pháp lý, không tranh luận, bào chữa gì thêm và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Bị cáo Vũ Kim K không tranh luận gì. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên toà phúc thẩm, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Tối ngày 14/10/2019, sau khi bàn bạc và thống nhất với nhau, Vũ Kim K điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Ngọc S đi từ xã E đến xã E1, huyện Krông Năng bắt trộm được 03 con chó, tổng trọng lượng 41 kg, có giá trị 2.255.000 đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo của bị cáo Vũ Kim K, kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Ngọc S. HĐXX xét thấy mức hình phạt 01 năm tù đối với bị cáo Vũ Kim K và 02 năm tù đối với bị cáo Nguyễn Ngọc S mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt đối với các bị cáo là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà các bị cáo gây ra. Các bị cáo đều có nhân thân xấu, bị cáo K có 01 tiền sự về hành vi “Trộm cắp tài sản”, ngày 12/11/2018, bị Ủy ban nhân dân xã P ban hành Quyết định số 300/QĐ-XPHC xử lý vi phạm hành chính. Bị cáo S có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 54/2015/HSPT ngày 09/02/2015, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 02 năm 06 tháng tù, chưa được xóa án tích, đều về hành vi trộm chó. Các bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà tiếp tục phạm tội, thể hiện sự xem thường pháp luật nên cần cách lý các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết.
Mặt khác, bị cáo S còn có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo, tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ mới. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Vũ Kim K và Nguyễn Ngọc S – Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2020/HS-ST ngày 20/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk.
[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định. Tuy nhiên, bị cáo Nguyễn Ngọc S thuộc diện hộ cận nghèo nên theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án cần miễn án phí hình sự phúc thẩm cho bị cáo là phù hợp.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.
1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Vũ Kim K và Nguyễn Ngọc S – Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2020/HS-ST ngày 20/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk.
Tuyên bố: Bị cáo Vũ Kim K, Nguyễn Ngọc S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b,h,s,i khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS Xử phạt: Bị cáo Vũ Kim K 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù, tính từ ngày bắt thi hành án. Được khấu trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày 14/10/2019 đến ngày 24/10/2019.
- Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS:
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Ngọc S 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù, tính từ ngày bắt thi hành án. Được khấu trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày 15/10/2019 đến ngày 24/10/2019.
2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Vũ Kim K phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo Nguyễn Ngọc S được miễn án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 109/2020/HS-PT
Số hiệu: | 109/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về