Bản án về tội trộm cắp tài sản số 108/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT - TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 108/2023/HS-ST NGÀY 07/06/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 64/2023/HSST ngày 16 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 108/2023/QĐXXST- HS ngày 24 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: MAI VĂN A, giới tính: nam; sinh ngày 16/12/2005, tại tỉnh Bình Thuận.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: khu phố 8, phường B, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận;

Nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): không biết chữ;

Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông: Mai Văn C, sinh năm 1988 và bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1989, cùng cư trú tại khu phố 8, phường B, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận;

Anh chị em ruột có 02 người, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình;

Vợ, con: chưa có;

Tiền án: không; tiền sự: không. Nhân thân:

Ngày 29/12/2022, bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xử phạt 05 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản” theo bản án số 257/2022/HSST.

Ngày 17/01/2023, bị Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 11/2023/HSST.

Ngày 18/01/2023, bị Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 12/2023/HSST.

Ngày 09/02/2023, bị Tòa án nhân dân thị xã LaGi xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 12/2023/HSST.

Ngày 13/02/2023, bị Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 16/2023/HSST.

Ngày 14/4/2023, bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 76/2023/HSST.

Bị cáo bị bắt tạm giam vào ngày 11/7/2022 trong vụ án khác, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Thiết.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người liên quan: ông Nguyễn E: sinh năm: 1974, (Vắng mặt). Địa chỉ: tổ 3, thôn F, xã G, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.

Người bào chữa cho bị cáo Mai Văn A: ông Vũ Hồ H, sinh năm 1958, thuộc Văn phòng Luật sư C&C - Đoàn Luật sư tỉnh Bình Thuận (Vắng mặt).

Người đại diện theo pháp luật của bị cáo Mai Văn A: ông Mai Văn I, sinh năm 1988. Nơi cư trú: khu phố 8, phường B, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (có mặt).

Người bị hại: Nguyễn Quốc J, sinh năm 1983. Nơi cư trú: khu phố 3, phường K, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. (Vắng mặt).

Người làm chứng: Nguyễn Thiện L, sinh ngày 18/8/2008. Nơi cư trú: thôn M, xã G, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (vắng mặt).

Người đại diện theo pháp luật của người làm chứng, Nguyễn Văn N, sinh năm: 1986, (vắng mặt); Địa chỉ: thôn M, xã G, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ ngày 02/03/2022, Mai Văn A chơi game tại quán Nhím cà phê (thuộc khu phố 1, phường Phú Thủy, thành phố Phan Thiết) thì thấy Nguyễn Thiện L (sinh ngày 18/8/2008, trú tại thôn M, xã G, thành phố Phan Thiết) cũng đang chơi game tại đây. Sau đó, A rủ L “đi tìm tài sản sơ hở bán lấy tiền tiêu xài” L đồng ý. A điều khiển xe mô tô (không nhớ rõ biển số) do A trộm được trước đó chở L ngồi phía sau tìm tài sản trộm cắp. Khi đi đến trước số nhà K1-KDC Võ Văn Tần (thuộc khu phố 10, phường Phú Trinh, thành phố Phan Thiết) A nhìn thấy có 02 chiếc xe mô tô đang dựng trước nhà không có người trông coi nên A dừng xe lại J L đứng cảnh giới còn A đi bộ đến dắt xe mô tô biển số 86C1-X của anh Nguyễn Quốc J (sinh năm 1983, trú tại khu phố 3, phường K, thành phố Phan Thiết) đi ra ngoài đường. Sau đó, L điều khiển xe mô tô của A trộm trước đó dùng chân đẩy xe mô tô biển số 86C1-X chở A ngồi trên, đi đến đường Trần Quý Cáp thì dừng lại để mở khóa xe nhưng không được. Sau đó, A luồn tay vào trong cốp xe mô tô biển số 86C1-X lấy được Giấy đăng ký xe mô tô biển số 86C1- X nên A đăng bán xe mô tô biển số 86C1-X trên mạng xã hội. Ông Nguyễn E (sinh năm 1974, trú tại thôn F, xã G, thành phố Phan Thiết) thấy Mai Văn A đăng bán xe mô tô biển số 86C1-X nên liên lạc với A mua xe. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, A và L điều khiển xe mô tô biển số 86C1-X đến nhà ông E bán xe, A nói đây là xe của A. Ông E thấy xe có Giấy đăng ký nên tin tưởng, đồng ý mua xe mô tô biển số 86C1-X với giá 4.500.000 đồng. A cho L 1.000.000 đồng còn lại A giữ và tiêu xài hết.

Vật chứng của vụ án:

- 01 xe mô tô hiệu Sirius biển số 86C1-X, số máy 5C64861888, số khung C640CY861882 và 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe môtô biển số 86C1- X mang tên Trần Quốc J (do Nguyễn E giao nộp).

Tại Kết luận định giá tài sản số 07/KL-HDĐG ngày 02/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Phan Thiết kết luận:

01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển số 86C1-X trị giá 8.800.000 đồng.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về độ tuổi số 2353, ngày 28/4/2022 của Viện khoa học hình sự tại TP Hồ Chí Minh kết luận Mai Văn A có độ tuổi như sau:“…Qua quá trình khám lâm sàng và kết luận cận lâm sàng, xác định tại thời điểm giám định (tháng 4/2022) Mai Văn A có độ tuổi từ 16 năm 10 tháng đến 17 năm 04 tháng.. ”.

Như vậy tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội (ngày 02/3/2022), A có độ tuổi từ 16 năm 09 tháng đến 17 năm 03 tháng.

Xử lý vật chứng và dân sự:

Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô biển số 86C1-X và 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 86C1-X cho anh Trần Quốc J. Anh J đã nhận tài sản và không yêu cầu bồi thường về dân sự.

Đối với số tiền 4.500.000 đồng, anh E đã mua lại xe mô tô biển số 86C1- X do L và A trộm cắp mà có, anh E không yêu cầu A và L trả lại số tiền nêu trên.

Tại bản Cáo trạng số 65/CT-VKSPT-HS ngày 11/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết đã truy tố bị cáo Mai Văn A về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm o khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 91 và Điều 101 Bộ luật Hình sự, xử phạt Mai Văn A từ 09 đến 12 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”.

Về bồi thường thiệt hại: bị hại vắng mặt tại phiên tòa, trong hồ sơ thể hiện đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường dân sự.

Về xử lý vật chứng và dân sự theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, ý kiến của người bào chữa của bị cáo Mai Văn A thống nhất với lời luận tội của Viện kiểm sát, về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo thành khẩn khai báo, phạm tội dưới 18 tuổi, hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha mẹ bị cáo ly hôn từ lúc bị cáo mới 06 tuổi, không được học hành, lớn lên trong môi trường giáo dục không tốt nên có hành vi sai trái, không suy nghĩ tới hậu quả, hành vi phạm tội xảy ra nhiều nhưng chưa bị kết án trước đó, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Mai Văn A khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng; bị cáo không có ý kiến tranh luận với luận tội của Kiểm sát viên và không tự bào chữa. Bị cáo nói lời sau cùng: mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Phan Thiết, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, theo hồ sơ đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự và thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Mai Văn A và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về thủ tục tố tụng:

Trong vụ án này có người bị hại vắng mặt tại phiên tòa. Bị cáo và Kiểm sát viên đều đề nghị xét xử vắng mặt người bị hại. Xét thấy sự vắng mặt của người bị hại không gây trở ngại đến việc xét xử giải quyết vụ án, mặt khác bị hại đã có đầy đủ lời khai trong hồ sơ vụ án, khi cần thiết Hội đồng xét xử sẽ công bố lời khai của bị hại trước tòa. Căn cứ vào khoản 1 Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về căn cứ buộc tội đối với bị cáo:

Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo khai nhận vào khoảng 13 giờ ngày 02/3/2022, tại trước số nhà K1-KDC Võ Văn Tần (thuộc khu phố 10, phường Phú Trinh, thành phố Phan Thiết), Nguyễn Thiện L có hành vi cảnh giới cho Mai Văn A thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt xe mô tô biển số 86C1-X trị giá 8.800.000 đồng của anh Nguyễn Quốc J. Sau đó, A và L bán xe mô tô nêu trên cho anh Nguyễn E với giá 4.500.000 đồng.

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật hình sự nhưng vì động cơ tham lam, muốn có tiền tiêu xài cá nhân nên đã bất chấp sự trừng trị của pháp luật, lợi dụng sơ hở của người bị hại trong việc quản lý tài sản, cố ý lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai của người bị hại cùng với các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án, đã đủ cơ sở kết luận bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý và nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ và gây mất trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Do đó, Bản cáo trạng số 65/CT-VKSPT-HS, ngày 11/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết đã truy tố bị cáo A về hành vi trộm cắp tài sản là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Mai Văn A có hành vi xúi giục Nguyễn Thiện L (dưới 18 tuổi) cùng thực hiện hành vi phạm tội, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự và nhân thân xấu, liên tục thực hiện nhiều hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu, trộm cắp tài sản trên các địa bàn, thể hiện xem thường pháp luật và thiếu ý thức chấp hành pháp luật, do đó Hội đồng xét xử thấy cần có hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa thì mới có tác dụng phòng ngừa chung và cải tạo, răn đe giáo dục đối với bị cáo.

Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; phạm tội do trình độ hiểu biết pháp luật hạn chế nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tại thời điểm thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, bị cáo A có độ tuổi trên 16 tuổi nhưng dưới 18 tuổi nên được áp dụng các quy định tại Điều 91, Điều 101 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt.

[5] Về ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết: về việc áp dụng pháp luật, mức hình phạt là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

[6] Lời trình bày của người bào chữa cho bị cáo là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại:

Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố Phan Thiết đã xử lý vật chứng trả lại chiếc xe môtô biển số 86C1-X và 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 86C1-X cho Trần Quốc J. Anh J đã nhận tài sản và không yêu cầu bồi thường về dân sự.

Đối với số tiền 4.500.000 đồng, ông E đã mua lại xe mô tô biển số 86C1- X do L và A trộm cắp mà có, ông E không yêu cầu A và L trả lại số tiền nêu trên nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[8] Về vấn đề khác:

Đối với Nguyễn Thiện L có hành vi cảnh giới giúp cho Mai Văn A thực hiện hành vi trộm cắp xe mô tô biển số 86C1-X. Tuy nhiên, tại thời điểm cùng A thực hiện hành vi phạm tội, L được 13 tuổi 06 tháng 15 ngày, không đủ tuổi truy cứu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan điều tra không khởi tố đối với L là có căn cứ đúng quy định.

Đối với ông Nguyễn E đã mua lại xe mô tô biển số 86C1-X nhưng không biết xe mô tô là tài sản do A và L phạm tội mà có nên không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” là có căn cứ đúng quy định.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ : khoản 1 Điều 173; điểm o khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 91 và Điều 101 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Mai Văn A phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Mai Văn A 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Bị hại đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

3. Về án phí: căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Mai Văn A phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo của bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo có mặt tại phiên tòa là 15 ngày kể từ ngày tuyên án (07/6/2023). Quyền kháng cáo của người bị hạ, người bào chữa cho bị cáo vắng mặt tại phiên tòa là 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

43
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 108/2023/HS-ST

Số hiệu:108/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về