TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 108/2023/HS-PT NGÀY 28/09/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 28 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 96/2023/TLPT-HS ngày 31 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo MAI VĂN V do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 112/2023/HS-ST ngày 16 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.
- Bị cáo có kháng cáo:
MAI VĂN V, sinh ngày 16 tháng 12 năm 2005 tại Bình Thuận.
Nơi cư trú: khu phố 8, phường Đ, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 0/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Văn Tuấn và bà Nguyễn Thị La; tiền án: không; tiền sự: không; nhân thân:
- Ngày 29/12/2022, bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận tuyên phạt 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cướp tài sản” theo Bản án số 257/2022/HSST;
- Ngày 17/01/2023, bị Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận tuyên phạt 12 (mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 11/2023/HSST;
- Ngày 18/01/2023, bị Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận tuyên phạt 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 12/2023/HSST;
- Ngày 09/02/2023, bị Tòa án nhân dân thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận tuyên phạt 18 (mười tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù của Bản án số 257/2022/HSST, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả 02 Bản án là 07 (bảy) năm tù theo Bản án số 12/2023/HSST;
- Ngày 13/02/2023, bị Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng tuyên phạt 18 (mười tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù của Bản án số 257/2022/HSST, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả 02 Bản án là 07 (bảy) năm tù theo Bản án số 16/2023/HSST;
- Ngày 14/4/2023, bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận tuyên phạt 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 76/2023/HSST;
- Ngày 07/6/2023, bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận tuyên phạt 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 108/2023/HSST.
Bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Thiết từ ngày 11/7/2022. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người đại diện hợp pháp của bị cáo MAI VĂN V:
- Ông Mai Văn Tuấn, sinh năm 1988. Địa chỉ: khu phố 8, phường Đ, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Có mặt;
- Bà Nguyễn Thị La, sinh năm 1989. Địa chỉ: khu phố 4, phường P, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt;
Người bào chữa của bị cáo MAI VĂN V: Luật sư Phạm Thị Thanh T thuộc Văn phòng Luật sư C, Đoàn luật sư tỉnh Bình Thuận. Có mặt;
Trong vụ án còn có bị cáo khác và người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhưng không kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vụ thứ nhất và vụ thứ hai: Khoảng 14 giờ ngày 15/4/2022, MAI VĂN V mượn xe mô tô biển số 78G1-xxxxx của K (không rõ nhân thân) chở Phạm Hoàng T đến đoạn đường gần hồ bơi H thuộc thôn Xuân Hòa, xã Phong Nẫm, thành phố Phan Thiết thì cả hai phát hiện có 01 chiếc xe mô tô loại Sirius, biển số 86C1-xxxxx của Nguyễn Thị Kim H dựng bên lề đường không có người trông coi. Lúc này, V dừng xe mô tô 78G1-xxxxx lại để cảnh giới, T lén lút lấy xe mô tô 86C1-xxxxx rồi V điều khiển xe mô tô 78G1-xxxxx đẩy xe mô tô 86C1-xxxxx do T cầm lái cùng đi về xã Hàm Liêm, huyện Hàm Thuận Bắc. Tại đây, V thuê thợ đánh chìa khóa xe cho xe mô tô 86C1-xxxxx rồi V điều khiển xe mô tô này đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Thuận cất giấu ở bãi xe.
Đến khoảng 13 giờ ngày 18/4/2022, V đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Thuận lấy xe mô tô biển số 86C1-xxxxx rồi chở Phạm Hoàng T chạy đến ngã tư Phú Hội trên đường Trường Chinh thuộc thôn Xuân Tài, xã Phong Nẫm, thành phố Phan Thiết, cả hai phát hiện có 01 xe mô tô loại Sirius, biển số 86B4- xxxxx của ông Ngô Thanh T để trên lề đường không có ai trông coi. Lúc này, V dừng xe mô tô 86C1-xxxxx để cảnh giới, T đi bộ đến lấy trộm xe mô tô biển số 86B4-xxxxx rồi V điều khiển xe mô tô 86C1-xxxxx đẩy xe mô tô 86B4-xxxxx do T cầm lái đến chợ Phan Thiết thuộc phường Đức Nghĩa, thành phố Phan Thiết để thay ổ khóa cho xe mô tô 86B4-xxxxx. Qua theo dõi và biết T, V thực hiện hành vi trộm cắp nên Cơ quan điều tra Công an thành phố Phan Thiết đến đưa V, T cùng các tang vật đến Công an xã Phong Nẫm làm việc. Tại đây, V và T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội ngày 18/4/2022, đồng thời tự khai nhận hành vi trộm cắp ngày 15/4/2022.
Vật chứng của vụ án:
- Thu giữ của MAI VĂN V:
+ 01 xe mô tô loại Sirius, biển số: 86C1-xxxxx, số máy: 5C6J-182774, số khung: RLCS5C6J0GY182770.
+ 01 xe mô tô loại Sirius, biển số 86B4-xxxxx, số máy: E3T6E321328, số khung: 1720JY043724.
Tại Kết luận định giá tài sản số 115A/KL-HĐĐG của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Phan Thiết kết luận: 01 chiếc xe mô tô biển số 86C1-xxxxx, nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu trắng đỏ, trị giá 8.800.000 đồng.
Tại Kết luận định giá tài sản số 73/KL- HĐĐG ngày 11/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Phan Thiết kết luận: 01 chiếc xe mô tô loại Sirius, biển số 86B4-xxxxx, trị giá 10.500.000 đồng.
Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô 86C1- xxxxx cho bà Nguyễn Thị Kim H và trả lại chiếc xe mô tô 86B4-xxxxx cho ông Ngô Thanh T. Bà Hoa và ông T đã nhận lại xe và không yêu cầu bồi thường gì về dân sự.
Vụ thứ ba: Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 06/7/2022, MAI VĂN V, Nguyễn Thị Thu Y và Phạm Hồng T bàn bạc, rủ nhau đi trộm cắp xe mô tô để bán kiếm tiền tiêu xài. T điều khiển xe mô tô hiệu Wave, biển số 86H4- xxxx, V điều khiển xe mô tô hiệu Exciter, biển số 86B3-415.41 chở Y cùng đến khu dân cư Văn Thánh thuộc phường Phú Tài. Khi đến số nhà D1/27 đường Nguyễn Thị Định thuộc khu phố 3, phường P, thành phố Phan Thiết, cả ba phát hiện phía trước nhà này có để 01 xe mô tô hiệu Winner, biển số 86B3- xxxxx của ông Dương Văn T không có người trông coi nên V nói với T:
“Có xe Winner kìa, mày vào dắt đi”. T điều khiển xe mô tô 86H4-xxxx của T đến gần xe mô tô biển số 86B3-xxxxx, T để lại xe mô tô 86H4-xxxx rồi lấy trộm xe mô tô 86B3-xxxxx đem ra để V chở Y đẩy xe mô tô 86B3- xxxxx cùng T chạy đến Quốc lộ 28 thuộc thôn Thắng Hiệp, xã Hàm Thắng, huyện Hàm Thuận Bắc tìm thợ làm khóa xe cho mô tô biển số 86B3-xxxxx nhưng không có nên V nói với T đứng chờ để V chở Y đi tìm thợ làm khóa.
Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, ông T đi ra nơi để xe, phát hiện chiếc xe mô tô biển số 86B3-xxxxx bị mất trộm, tại nơi ông T để xe mô tô biển số 86B3-xxxxx có 01 chiếc xe mô tô hiệu Wave, biển số 86H4-xxxx rồi ông T nhìn thấy 02 đối tượng nam thanh niên đang đẩy xe mô tô biển số 86B3-xxxxx của ông T nên ông T đến Công an phường trình báo, đồng thời giao nộp chiếc xe 86H4-xxxx.
Khi T đang đứng cùng 01 chiếc xe Winner, biển số 86B3-xxxxx chờ V và Y quay lại thì Tổ công tác thuộc Công an xã Hàm Thắng, huyện Hàm Thuận Bắc tuần tra dọc Quốc lộ 28 thuộc thôn Thắng Hiệp, xã Hàm Thắng, thấy T có đặc điểm giống với đối tượng đã trộm cắp xe mô tô tại xã Hàm Thắng vào ngày 22/5/2022 nên bắt giữ, đưa T cùng tang vật về Công an phường P xử lý. Đến khoảng 15 giờ ngày 06/7/2022, V chở Y quay lại tìm T, thấy T bị lực lượng Công an bắt nên V chở Y bỏ trốn, đến ngày 10/7/2022, V và Y đang ở thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thì bị lực lượng Công an đưa về trụ sở làm việc.
Vật chứng của vụ án:
- 01 xe mô tô hiệu Winner, biển số 86B3-xxxxx: Thu giữ của Phạm Hoàng T.
- 01 chiếc xe mô tô hiệu Wave, biển số 86H4-xxxx: Thu giữ do ông Dương Văn T giao nộp.
- 01 chiếc xe mô tô hiệu Exciter, biển số 86B3-415.41: Thu giữ của MAI VĂN V.
Tại Kết luận định giá tài sản số 116A ngày 12/9/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Phan Thiết kết luận: 01 chiếc xe mô tô biển số 86B3-xxxxx, nhãn hiệu Honda Winner, màu trắng đen, trị giá 17.600.000 đồng”.
Về xử lý vật chứng:
- Chiếc xe mô tô hiệu Winner, biển số 86B3-xxxxx là của ông Huỳnh Ngọc T (sinh năm 1980, trú tại khu phố Phú Hòa, thị trấn Phú Long, huyện Hàm Thuận Bắc, là anh rể của ông T) cho ông T mượn sử dụng. Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô trên cho ông T.
- Chiếc xe mô tô hiệu Wave, biển số 86H4-xxxx là của ông Nguyễn Quốc A, ông A bị mất trộm vào tháng 5/2022 nên Cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữ để làm rõ, xử lý sau.
- Đối với chiếc xe mô tô hiệu Exciter, biển số 86B3-415.41: V khai do V trộm cắp tại thôn Dân Phú, xã Hàm Kiệm, huyện Hàm Thuận Nam vào ngày 29/6/2022 nên Cơ quan điều tra đã bàn giao đến Công an huyện Hàm Thuận Nam để điều tra, giải quyết theo thẩm quyền.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 112/2023/HS-ST ngày 16 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 17; Điều 38; điểm s, r khoản 1 Điều 51;
điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 56; Điều 58; Điều 90; Điều 91; Điều 98; khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tuyên bố các bị cáo MAI VĂN V, Phạm Hoàng T phạm tội “Trộm cắp tài sản” Xử phạt bị cáo MAI VĂN V 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 18 (mười tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 16/2023/HSST ngày 13/02/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng; 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 76/2023/HSST ngày 14/4/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết. Hình phạt chung buộc bị cáo phải chấp hành cho cả 03 Bản án là 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/7/2022.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về hình phạt đối với bị cáo T, về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 27/6/2023, bị cáo MAI VĂN V có đơn kháng cáo cho rằng, mức hình phạt 01 năm 03 tháng tù đối với bị cáo là cao nên đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bị cáo V vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo.
- Luật sư bào chữa cho bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bởi tại thời điểm phạt tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi; hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo không biết chữ nên nhận thức pháp luật hạn chế.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án: Bản án sơ thẩm xét xử bị cáo MAI VĂN V về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS là có căn cứ.
Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo và tuyên phạt bị cáo mức án 01 năm 03 tháng tù là phù hợp và có căn cứ pháp luật. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không đưa ra được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới. Do đó việc bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt là không có cơ sở chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Xét thấy đơn kháng cáo của bị cáo MAI VĂN V được làm trong hạn luật định nên đủ điều kiện xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo MAI VĂN V khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và thừa nhận Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 BLHS” là đúng, không oan.
[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo MAI VĂN V: Hội đồng xét xử thấy rằng, bị cáo là người có nhân thân xấu, đã từng bị kết án phạt tù về tội trộm cắp tài sản nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện đạo đức mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Điều đó thể hiện bị cáo là người có nhận thức kém, xem thường pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm khi xét xử đã cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và áp dụng tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo quy định tại điểm s, r khoản 1Điều 51 và điểm g khoản 1 Điều 52 và đã áp dụng chương XII Bộ luật hình sự “quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội” để tuyên phạt bị cáo mức án 01 năm 03 tháng tù là phù hợp, không nặng. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không đưa ra được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới. Vì vậy, yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo là không có cơ sở chấp nhận, cần giữ nguyên mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[5] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo MAI VĂN V. Giữ nguyên hình phạt đã tuyên đối với bị cáo tại Bản án hình sự sơ thẩm số 112/2023/HS-ST ngày 16 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết.
Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 17; Điều 38; điểm s, r khoản 1 Điều 51;
điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 56; Điều 58; Điều 90; Điều 91; Điều 98; khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015.
1. Tuyên bố các bị cáo MAI VĂN V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo MAI VĂN V 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 18 (mười tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 16/2023/HSST ngày 13/02/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng; 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 76/2023/HSST ngày 14/4/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết. Hình phạt chung buộc bị cáo phải chấp hành cho cả 03 Bản án là 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/7/2022.
2. Án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày 28/9/2023).
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 108/2023/HS-PT
Số hiệu: | 108/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về