Bản án về tội trộm cắp tài sản số 108/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ - TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 108/2022/HS-ST NGÀY 07/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 07 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Rạch Giá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 18/2021/HS-ST ngày 26 tháng 01 năm 2021. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/2022/QĐXXST- HS ngày 25 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Thị L – Sinh năm : 1989; Quê quán: huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang; Giới tính: Nữ; Hộ khẩu thường trú và chổ ở hiện nay: 93 Võ Trường Toản, phường Vĩnh Thanh, Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Con ông Lê Văn Tổng (đã chết) và bà Dương Thị Tím, sinh năm: 1949 già yếu; chồng: Dương Phan Tấn Tài, sinh năm: 1993; con ruột 03 người: lớn nhất sinh năm 2003 và nhỏ nhất sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 01/6/2021 đến ngày 26/8/2022. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Trần Thị Thúy M , sinh năm 1992. (vắng mặt) Địa chỉ: 251 Lâm Quang Ky, phường Vĩnh Lạc, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

* Người đại diện hợp pháp của bị cáo:

Bà Phan Thị Ngọc Sang, sinh năm: 1970 (có mặt) Địa chỉ: 342/2/12 Trần Khánh Dư, phường An Hòa, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang *Người bào chữa cho bị cáo: luật sư Phạm Thị Viên, Văn phòng luật sư Bùi Hồng Điệp. (có mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Thị L là đối tượng không có nghề nghiệp và bị bệnh hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi do sử dụng nhiều loại ma túy. Do có quen biết với Trần Thị Thúy My nên vào khoảng 07 giờ ngày 29/5/2021 L đến phòng trọ số 13 nhà trọ số 251 Lâm Quang Ky, phường Vĩnh Lạc, thành phố Rạch Giá tìm My đang trọ tại đây. Khi đến nơi L thấy trước phòng trọ của My có đậu 01 xe máy nhãn hiệu Vision biển kiểm soát 69B1-392.95 (xe của My là chủ sở hữu nhưng nhờ Nguyễn Hữu Thơ mua và đứng tên dùm) nên nảy sinh ý định lấy xe. Lúc này quan sát lúc My đang ngủ trong phòng và xung quanh không có người nên L dẫn xe của My ra ngoài đường rồi dẫn xe đi. Khi dẫn xe đến ngã tư đường Lạc Hồng và Lâm Quang Ky thì L thuê anh Nguyễn Văn Lưu chạy xe ôm gần đó đẩy xe của My về hướng Rạch Sỏi, khi đến ngã tư đường Đống Đa và đường Lâm Quang Ky thì anh Sa Ma Ên nghi ngờ L lấy xe của người khác nên anh Sa Ma Ên cùng anh Lưu giữ L và xe trộm được lại và báo công an phường Vĩnh Lạc đến bắt giữ cùng tang vật.

- Các vật chứng đã thu giữ và xử lý vật chứng trong vụ án:

Thu giữ 01 xe xe máy nhãn hiệu Honda Vision màu xanh nâu đen, dung tích 108 biển kiểm soát 69B1-392.95 số máy JF86E0182374 số khung 5838KY482445 đã qua sử dụng của bị hại. Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho bị hại Trần Thị Thúy My.

- Tại Kết luận định giá tài sản số 89/KL-HĐHGTS, ngày 05/7/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Rạch Giá kết luận: 01 xe xe máy nhãn hiệu Honda Vision màu xanh nâu đen, dung tích 108 biển kiểm soát 69B1-392.95 số máy JF86E0182374 số khung 5838KY482445 đã qua sử dụng có giá trị tại thời điểm ngày 29/5/2021 là 23.667.000 đồng.

- Tại bản kết luận giám định pháp y tâm thần theo trưng cầu số 212/2021/KLGĐ ngày 09/11/2021 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Tây Nam Bộ kết luận đối với Lê Thị L:

Về y học: Trước, trong, sau khi phạm tội và hiện tại rối loạn nhân cách, hành vi do sử dụng nhiều loại ma túy.

Về năng lực: tại thời điểm phạm tội và hiện tại đương sự có năng lực trách nhiệm hình sự.

-Tại Công văn số 212.0/PYTT ngày 09/11/2021 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Tây Nam Bộ có ý kiến như sau: về trách nhiệm hình sự tại thời điểm phạm tội và hiện tại đương sự có năng lực trách nhiệm hình sự.

-Về trách nhiệm dân sự: người bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác.

*Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Thị L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Về hình phạt: Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, q, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để tuyên phạt cho bị cáo Lê Thị L mức án từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

+ Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá đã xử lý đúng nên không đề nghị giải quyết.

+ Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu gì nên không đề nghị xử lý.

- Bị cáo Lê Thị L đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu. Lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để sớm có cơ hội quay về làm ăn lương thiện.

- Người bào chữa cho bị cáo có ý kiến: Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá truy tố đúng người, đúng tội và có căn cứ. Tuy nhiên, bị cáo xuất phát từ ý thức muốn đòi nợ cho chị của bị cáo. Bị cáo lại là người bị hạn chế nhận thức, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, lại đang nuôi 03 con nhỏ. Hành vi phạm tội của bị cáo chưa gây ra hậu quả gì. Do vậy, đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm i, q, s khoản 1 Điều 51, Điều 54 xét xử cho bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và bằng thời gian bị cáo đã bị tạm giữ tạm giam.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Rạch Giá, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiền hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét thấy, bị cáo L là đối tượng không nghề nghiệp ổn định và ị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Vào khoảng 07 giờ ngày 29/5/2021 tại phòng trọ số 13 nhà trọ số 251 Lâm Quang Ky, phường Vĩnh Lạc, thành phố Rạch Giá L đã lén lút chiếm đoạt 01 xe mô tô hiệu Vision của chị My, giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt được là 23.667.000 đồng. Vì vậy hành vi của bị cáo Lê Thị L đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá đã truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như đã viện dẫn trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[3] Xét tính chất mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Theo Công văn số 212.0/PYTT ngày 09/11/2021 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Tây Nam Bộ có ý kiến như sau: về trách nhiệm hình sự tại thời điểm phạm tội và hiện tại bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi phạm tội của bị cáo với lỗi cố ý trực tiếp đã xâm phạm đến quyền sỡ hữu tài sản của người khác được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của người bị hại và làm mất an ninh trật tự tại địa phương.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cần có hình phạt tương xứng để răn đe đối với bị cáo, đồng thời cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tính giáo dục, cải tạo bị cáo trở nên một công dân tốt và phòng ngừa chung cho xã hội. Mức án trong khoảng đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá tại phiên tòa là phù hợp đối với bị cáo.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự gì. Trong vụ án này bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và ý kiến của luật sư bào chữa, cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại các điểm q, i, s khoản 1 2 Điều 51 BLHS năm 2015. Do bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ nên áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để xem xét quyết định mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp; thu nhập không ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo khoản 5 Điều 173 Bộ Luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017 đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại các tài sản bị mất trộm, không có yêu cầu gì khác, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá xử lý vật chứng theo đúng quy định nên HĐXX không xem xét.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về án phí lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm q, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 54 và Điều 38 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Tuyên bố bị cáo Lê Th L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Lê Th L 04 (bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt chấp hành án, khấu trừ thời gian bị cáo bị tạm giữa, tạm giam ngày 29/5/2021 đến ngày 26/8/2021.

* Về án phí hình sự sơ thẩm:

Buộc bị cáo Lê Thị L phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

* Quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 07/4/2022), riêng người bị hại vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày Tòa án tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

118
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 108/2022/HS-ST

Số hiệu:108/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về