Bản án về tội trộm cắp tài sản số 108/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 108/2022/HS-PT NGÀY 30/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 29/2022/HSST ngày 18 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo Nguyễn Thị Thùy T, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 522/2021/HSST ngày 09/12/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố H, tỉnh Đồng Nai.

Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Thị Thùy T, sinh năm 1976 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký thường trú: đường Phan Văn Trị, phường 12, quận T, thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Họ và tên cha, mẹ: Không rõ; Họ và tên mẹ (nuôi): Nguyễn Thị H, sinh năm 1938; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 12/08/2021 theo Lệnh bắt bị can để tạm giam số 983 ngày 10-8-2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H; có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo T: Luật sư Phạm Văn Đ – Văn phòng luật sư Phạm Đ, thuộc đoàn luật sư tỉnh Đồng Nai; có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại:

1/ Anh Lê T, sinh năm 1995.

Địa chỉ: tổ 6, khu phố 6, phường T, thành phố H, tỉnh Đồng Nai – vắng mặt tại phiên tòa.

2/ Ông Bùi Quang H, sinh năm 1964.

Địa chỉ: khu phố 7, phường N, thành phố H, tỉnh Đồng Nai – vắng mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1976.

Địa chỉ: Lý Thường Kiệt, phường 7, quận V, thành phố Hồ Chí Minh – vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị Thùy T là người không có nghề nghiệp. Để có tiền tiêu xài, T nảy sinh ý định đi đến trụ sở của các cơ quan Nhà nước để trộm cắp tài sản. Thực hiện ý định trên, trong khoảng thời gian từ ngày 03/06/2021 đến ngày 15/06/2021, T đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản tại địa bàn thành phố H, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 12 giờ 40 phút, ngày 03 tháng 6 năm 2021, T thuê xe ôm của một người nam giới (không rõ nhân thân lai lịch), đi từ quận T, thành phố Hồ Chí Minh đến Bệnh viện Quân y 7B trên đường Nguyễn Ái Quốc thuộc tổ 6, khu phố 6, phường T, thành phố H, tỉnh Đồng Nai rồi nói người chở xe ôm đứng bên ngoài chờ. Sau đó T đi bộ vào bên trong Bệnh viện Quân y 7B, thấy cửa phòng làm việc của anh Lê T là nhân viên Bệnh viện, không đóng cửa và bên trong không có người nên T lén lút đi vào bên trong phòng lấy trộm 01 chiếc máy tính xách tay hiệu Dell Insprison 5547 trên bàn làm việc của anh T, giấu vào trong người rồi đi ra ngoài lên xe ôm về lại thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, T đã bán chiếc laptop trên cho ông Nguyễn Văn S là người chuyên mua máy tính và điện thoại cũ được số tiền 2.500.000 đồng (Hai triệu, năm trăm nghìn đồng).

Vật chứng thu giữ, gồm:

- 01 chiếc máy tính xách tay hiệu Dell insprison 5547 là tài sản bị trộm cắp, sau khi mua của bị cáo T, ông S đã bán cho người khác (không rõ nhân thân lai lịch) nên không thu hồi được. (Bút lục số: 90);

- Số tiền 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng) tạm giữ của bị cáo T, là số tiền có được do bán chiếc máy tính trộm cắp được nêu trên. (Bút lục số: 35);

Vụ thứ hai: Vào khoảng 12 giờ 10 phút ngày 15 tháng 6 năm 2021, T thuê xe ôm của ông Nguyễn Văn Công H chở đến thành phố H, tỉnh Đồng Nai. Khi đi đến trụ sở Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai (địa chỉ số 38, đường S, khu phố 3, phường T, thành phố H, tỉnh Đồng Nai), T nói ông H đứng chờ ở ngoài cổng, sau đó T đi bộ vào bên trong thấy phòng làm việc của ông Bùi Quang H không khóa, bên trong không có người nên T lén lút đi vào bên trong phòng lấy trộm 01 chiếc máy tính xách tay hiệu Lenovo ThinkPad T480S, bỏ vào chiếc cặp do T mang theo rồi xách đi ra ngoài, nói ông H chở về lại thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục bán chiếc laptop vừa trộm được cho ông Nguyễn Văn S được số tiền 4.500.000 đồng (Bốn triệu, năm trăm nghìn đồng).

Sau đó, qua xác minh hình ảnh camera, hành vi phạm tội của T đã bị phát hiện, khởi tố, điều tra xử lý.

Vật chứng thu giữ, gồm:

- 01 chiếc máy tính xách tay hiệu Lenovo Thinkpad T480S, do ông Nguyễn Văn S giao nộp, là tài sản của ông Bùi Quang H bị trộm cắp nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã trả lại cho ông Huy; (Bút lục số:

32, 36).

- 01 chiếc điện thoại hiệu Iphone 5 tạm giữ của bị cáo T, là tài sản của bị cáo T đã sử dụng để gọi cho ông S tiêu thụ tài sản trộm cắp;

- Số tiền 4.500.000 đồng (Bốn triệu năm trăm nghìn đồng) tạm giữ của bị cáo T, là số tiền có được do bán chiếc máy tính trộm cắp được nêu trên. (Bút lục số: 35);

* Kết luận giám định:

Tại bản kết luận định giá tài sản số 406/KL- HĐĐGTS ngày 05/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: “01 chiếc máy tính xách tay hiệu Dell insprison 5547 có trị giá là 3.680.000 đồng (Ba triệu, sáu trăm tám mươi nghìn đồng)”. (Bút lục số: 17-20);

Tại bản kết luận định giá tài sản số 285/KL- HĐĐGTS ngày 21/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: “01 chiếc máy tính xách tay hiệu Lenovo Thinkpad T480S có trị giá là 22.400.000 đồng (Hai mươi hai triệu, bốn trăm nghìn đồng)”. (Bút lục số: 24-26);

* Về dân sự:

+ Người bị hại anh Lê T không yêu cầu bồi thường (Bút lục: 81).

+ Người bị hại ông Bùi Quang H đã nhận lại tài sản bị trộm cắp, không yêu cầu bồi thường (Bút lục số: 87) + Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn S yêu cầu bị cáo T trả lại số tiền 4.500.000 (Bốn triệu, năm trăm nghìn đồng). (Bút lục:

90).

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 522/2021/HSST ngày 09/12/2021của Tòa án nhân dân Thành phố H quyết định:

Áp dụng Khoản 1, Điều 173; điểm q, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; điểm g, Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thuỳ T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thuỳ T 10 (mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/8/2021.

Ngoài ra, án sơ thẩm cũng còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 16/12/2021, bị cáo Nguyễn Thị Thuỳ T kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt do mẹ bị cáo già yếu, bản thân bị cáo có tiền sử bị bệnh tâm thần.

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng pháp luật. Tài sản bị cáo trộm cắp trị giá 26.060.000đ, cấp sơ thẩm cũng đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo như bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; thời điểm phạm tội bị cáo là người bị hạn chế khả năng nhận thức, điều khiển hành vi, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để xử phạt bị cáo 10 tháng tù giam là có căn cứ. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp được tình tiết gì mới nên đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo 10 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng pháp luật. Tại cấp phúc thẩm bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt do mẹ bị cáo bị ung thư, bản thân bị cáo tại thời điểm phạm tội bị hạn chế năng lực hành vi dân sự nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về nội dung kháng cáo của bị cáo: tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu. Cụ thể: ngày 03/6/2021, bị cáo lấy trộm 01 chiếc máy tính xách tay trên bàn làm việc của anh Lê T, nhân viên Bệnh viện 7B; ngày 15/6/2021, bị cáo vào trụ sở Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai lấy trộm 01 chiếc máy tính xách tay trên bàn làm việc của ông Bùi Quang H. Bị cáo đã 2 lần thực hiện hành vi phạm tội, tài sản bị cáo trộm cắp trị giá tổng cộng là 26.060.000đ. Cấp sơ thẩm đã căn cứ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; thời điểm phạm tội bị cáo là người bị hạn chế khả năng nhận thức, điều khiển hành vi, mẹ nuôi bị cáo bị ung thư dạ dày, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để xử phạt bị cáo 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” là phù hợp với quy định của pháp luật và tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có tình tiết gì mới nên không có căn cứ chấp nhận.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[6] Đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo, Hội đồng xét xử có xem xét, cân nhắc trong quá trình lượng hình.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 điều 355, 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Thuỳ T, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 522/2021/HSST ngày 09/12/2021của Tòa án nhân dân Thành phố H Áp dụng Khoản 1, Điều 173; điểm q, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; điểm g Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thuỳ T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thuỳ T 10 (mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/8/2021.

Về án phí: bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 108/2022/HS-PT

Số hiệu:108/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:30/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về