Bản án về tội trộm cắp tài sản số 107/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 107/2024/HS-ST NGÀY 14/05/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 5 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Du xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 107/2024/TLST-HS ngày 09/04/2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 171/2024/QĐXXST-HS ngày 02/5/2024, đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Công H, sinh năm 1996; HKTT: Thôn Hộ Vệ, xã Lạc Vệ, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Công H, sinh năm 1970 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1975; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là thứ hai; Vợ, con: Chưa có; Tiền án: Không.

- Nhân thân:

+ Tại quyết định số 21 ngày 06/02/2018, Công an huyện Tiên Du xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “xâm hại sức khỏe của người khác” với hình thức phạt tiền. Chưa chấp hành xong.

+ Tại bản án số 80/HSST ngày 15/9/2011, TAND huyện Tiên Du xử phạt 12 tháng tù treo thời gian thử thách 24 tháng về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1999. Đã chấp hành xong toàn bộ bản án.

+ Tại bản án số 174/HSST ngày 17/10/2018, TAND huyện Tiên Du xử phạt 14 tháng tù về tội “ Hủy hoại tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự năm 2015. Đã chấp hành xong toàn bộ bản án.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/01/2024 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh (Có mặt tại phiên toà).

2. Trịnh Văn K, sinh năm 1989; HKTT: Thôn Xuân Hội, xã Lạc Vệ, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn:

12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trịnh Xuân B, sinh năm 1954 và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1961; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là thứ ba; Vợ: Nguyễn Thị V, sinh năm 1996; Con: 02 con, con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: không;

- Nhân thân:

+ Ngày 01/8/2011, Chủ tịch UBND xã Dquyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã thời hạn 06 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

+ Tại bản án số 08/HSST ngày 28/10/2011, TAND huyện Tiên Du xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 04/11/2013, đã chấp hành xong toàn bộ bản án.

Bị cáo đầu thú bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/01/2024 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh (Có mặt tại phiên toà).

* Bị hại: UBND xã Liên Bão, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Người đại diện theo pháp luật: Ông Dương R – Chủ tịch UBND xã T.

- Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1970 – Trưởng thôn Hoài Thị, xã B, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Quang H, sinh năm 1966; HKTT: Thôn V, xã B, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 24/01/2024, Nguyễn Công H gọi điện thoại cho Trịnh Văn K đến đón để đi uống thuốc Methanol (thuốc cai nghiện giành cho người sử dụng ma tuý) ở phường Suối Hoa, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh, K đồng ý. Sau đó, K mượn chiếc xe máy nhãn hiệu honda màu xanh do Trung Quốc sản xuất BKS: 99F6-6746 của anh Nguyễn Quang Hùng ở cùng thôn, anh Hùng đồng ý vì trước đó K vẫn mượn xe của anh Hùng để đi uống thuốc Methanol. K điều khiển xe đến đón H rồi cả hai lên TP Bắc Ninh lấy thuốc uống. Sau khi uống thuốc xong, do vẫn còn nhu cầu sử dụng ma tuý nên cả hai rủ nhau đi mua ma tuý cùng sử dụng. K điều khiển xe chở H đi đến khu vực ngã sáu thuộc phường Suối Hoa, thành phố Bắc Ninh gặp một người đàn ông cả hai đều không quen biết khoảng ngoài 40 tuổi mua được 200.000đ ma tuý Heroine. Sau đó hai người ra bãi đất trống ở thành phố Bắc Ninh (không nhớ địa chỉ cụ thể) cùng nhau sử dụng.

Đến khoảng 12 giờ 50 phút ngày 24/01/2024, H và K muốn có tiền chi tiêu và mua ma tuý sử dụng nên cả hai cùng rủ nhau đi loanh quanh tìm tài sản xem có ai sơ hở sẽ lấy trộm. K điều khiển xe mô tô chở H đi đến khu vực trạm điện thuộc địa phận thôn Hoài Thị, Liên Bão thì nhìn thấy có ba chiếc xe thu gom rác đẩy tay, thùng bằng tôn 400 lít ( KH - XGRT400) để ở rìa đường thành hàng dọc, trên các xe đều đang chứa rác. Quan sát thấy không có người trông coi quản lý, cả hai nảy sinh ý định trộm cắp 01 chiếc xe rác. H bảo K dừng xe lại, K ngồi trên xe mô tô cảnh giới còn H xuống xe tiến đến chiếc xe chở rác để ở phía sau cùng đẩy về hướng bãi rác ở cách đó khoảng 200m mục đích để đổ rác ở trong xe ra sau đó cả hai sẽ kéo xe rác mang đi bán. K vẫn đỗ xe đợi còn H một mình đẩy xe ra bãi rác đổ, vừa đổ rác xong thì bị người dân đi qua phát hiện giữ lại, cùng lúc đó lực lượng công an xã Liên Bão tuần tra bắt quả tang và thu giữ vật chứng gồm 01 xe thu gom rác đẩy tay thùng bằng tôn 400 lít và chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 216 màu xanh bên trong lắp sim Viettel bị lỗi màn hình chính của H. K thấy H bị bắt giữ liền phóng xe bỏ trốn. Đến ngày 25/01/2024, K đã đến cơ quan Công an đầu thú.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 23/KL-ĐGTSTTHS ngày 26/01/2024 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận:“01 chiếc xe thu gom rác đẩy tay thùng bằng tôn 400 lít ( KH - XGRT400) có kích thước toàn bộ xe D1.125 x R1.145 x C986 (mm). Tài sản đã qua sử dụng, có giá trị còn lại 2.450.000 đồng”.

Tại Cơ quan điều tra, các bị cáo H và K đều thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của bản thân.

Tại bản Cáo trạng số 47/CT-VKS-TD ngày 08/4/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du đã truy tố các bị cáo Nguyễn Công H và Trịnh Văn K về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Các bị cáo thừa nhận Cáo trạng truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội và chỉ đề nghị HĐXX xem xét cho hưởng mức án thấp nhất.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du thực hành quyền công tố tại phiên tòa phát biểu luận tội; sau khi đưa ra các chứng cứ, phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Công H, Trịnh Văn K phạm tội “Trộm cắp tài sản” 2. Về hình phạt:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Công H từ 14 tháng tù đến 16 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/01/2024.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K từ 14 tháng tù đến 16 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/01/2024.

Về hình phạt bổ sung: Do các bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định nên đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

3. Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét giải quyết.

4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS:

- Trả lại bị cáo H 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 216 màu xanh bên trong lắp sim Viettel, tuy nhiên cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, chỉ đề nghị HĐXX xem xét cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng: Đã thực hiện theo quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vậy, các hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

2. Tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn nhận hành vi phạm tội, lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai của bị hại, người làm chứng, kết luận định giá và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 13 giờ 10 phút ngày 24/01/2024, tại khu vực trạm điện thuộc địa phận thôn Hoài Thị, xã Liên Bão, huyện Tiên Du, Công an xã Liên Bão phối hợp bắt quả tang Nguyễn Công H có hành vi lén lút trộm cắp chiếc xe thu gom rác đẩy tay thùng bằng tôn 400 lít (KH - XGRT400) của thôn Hoài Thị trị giá 2.450.000 đồng. Quá trình điều tra xác định, K cùng H trộm cắp chiếc xe thu gom rác trên, khi bị bắt quả tang thì lợi dụng sơ hở bỏ chạy Khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ. Ngoài ra còn gây tâm lý hoang mang, mất trật tự trị an tại địa phương nơi xảy ra hành vi phạm tội, vì vậy cần phải xử lý nghiêm các bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

3. Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, HĐXX thấy:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo K đến cơ quan điều tra đầu thú nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX xét thấy: Vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng rủ nhau thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Cả hai bị cáo H và K đều là người có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh xét xử nhưng không lấy đó làm bài học mà lại tiếp tục phạm tội cho thấy các bị cáo coi thường pháp luật, khó giáo dục cải tạo, nên cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục các bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có việc làm và không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo như đề nghị của đại diện VKS là phù hợp.

4. Về trách nhiệm dân sự:

- Ông Nguyễn Văn Quả là đại diện theo ủy quyền của UBND xã Liên Bão đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự nên không xem xét giải quyết.

- Anh Nguyễn Quang Hùng đã nhận lại 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu honda màu xanh do Trung Quốc sản xuất BKS: 99F6-6746 và không có yêu cầu, đề nghị gì nên không xem xét giải quyết.

5. Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 216 màu xanh bên trong lắp sim Viettel của bị cáo H không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo H nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án 6. Liên quan trong vụ án:

- Qua test nhanh thì các bị cáo H, K có kết quả dương tính với chất ma túy. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo H và K khai đã sử dụng ở một bãi đất trống tại thành phố Bắc Ninh nhưng không nhớ địa điểm cụ thể, nên không có căn cứ để xử lý đối với hành vi của các bị cáo K và H, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau là phù hợp.

- Đối với người đàn ông bán ma túy cho các bị cáo H và K vào ngày 24/01/2024 tại phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh, do các bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên chưa xác minh được, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là phù hợp.

- Đối với anh Hùng là người cho K mượn xe nhưng anh Hùng không biết K và H sử dụng chiếc xe trên thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra chỉ giáo dục, nhắc nhở là phù hợp.

7. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Công H và Trịnh Văn K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Công H 14 (Mười bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/01/2024.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K 14 (Mười bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/01/2024.

- Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam các bị cáo Nguyễn Công H, Trịnh Văn K 45 ngày kể từ ngày tuyên án 14/5/2024.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS: Trả lại cho bị cáo Nguyễn Công H 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 216 màu xanh bên trong lắp sim Viettel đã qua sử dụng, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Theo biên bản giao nhận vật chứng số 89 ngày 11/4/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tiên Du).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Các bị cáo Nguyễn Công H và Trịnh Văn K mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 107/2024/HS-ST

Số hiệu:107/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/05/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về