TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN CHÂU, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 105/2023/HS-ST NGÀY 11/09/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 11 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 58/2023/TLST-HS ngày 24 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2023/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Tiến T, sinh ngày 14/5/2005 tại tỉnh T; hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh T; chỗ ở hiện nay: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Tiến T1 (đã chết) và bà Nguyễn Thị Thu Đ; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Ngày 28/7/2023 bị Công an huyện T, tỉnh T xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” theo Quyết định số 74/QĐ-XPHC. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 19/7/2023 đến nay (có mặt).
Bị hại: Chị Đỗ Thị Bích T2, sinh ngày 04/9/2007; nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh T (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).
Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Lê Thị Trúc L, sinh năm 1986; nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh T (mẹ của bị hại), (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 19/6/2023, chị Đỗ Thị Bích T2, sinh ngày 04/9/2007 có tổ chức tiệc khai trương tiệm cắt tóc tại nhà thuộc ấp T, xã T, huyện T, tỉnh T và có mời Nguyễn Tiến T cùng một số người bạn của chị T2 đến dự tiệc. Trong lúc dự tiệc, chị T2 ngồi cạnh T và lấy điện thoại di động màu nâu đen, có ốp lưng màu hồng, nhãn hiệu Iphone xs, loại 64GB ra để trên bàn dụng cụ cắt tóc phía sau lưng chị T2 cắm sạc pin. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, chị T2 mang chén, đũa, ly ra phía sau nhà rửa, lúc đó T nhìn thấy chiếc điện thoại của chị T2 để trên bàn không có người trông coi nên T nảy sinh ý định trộm cắp. T đến lấy trộm điện thoại của T2 bỏ vào túi quần rồi nói với chị T2 đi về nhà có công việc, T mang điện thoại trộm cắp được đến vườn cây tràm của người dân thuộc ấp T, xã T, huyện T, tỉnh T cất giấu. Sau khi cất giấu điện thoại xong, T tiếp tục quay lại tiệm cắt tóc của chị T2 nhằm để cho chị T2 không nghi ngờ. Khi phát hiện bị mất điện thoại, chị T2 đến cơ quan Công an xã T trình báo sự việc. Qua làm việc T thừa nhận đã trộm cắp và chỉ chỗ cất giấu điện thoại để cơ quan công an thu giữ.
Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T, tỉnh T Nguyễn Tiến T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.
Kết luận về việc định giá của Hội đồng định giá tài sản số 26/KL-HĐĐG ngày 28/6/2023 của Hội đồng định giá tài sản huyện T, kết luận: 01 điện thoại di động màu nâu đen, có ốp lưng màu hồng, nhãn hiệu Iphone XS, loại 64GB, số I: 357208097778128, tại thời điểm sinh giá ngày 19/6/2023 có giá trị 4.167.000 đồng Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: 01 điện thoại di động màu nâu đen, có ốp lưng màu hồng, nhãn hiệu Iphone xs, loại 64GB, số I: 357208097778128 đã trả lại cho chủ sở hữu là chị Đỗ Thị Bích T2.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Đỗ Thị Bích T2 không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm.
Tại bản Cáo trạng số 100/CT-VKSTC ngày 16/8/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh T đã truy tố bị cáo Nguyễn Tiến T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh T giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Tiến T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị áp dụng Khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; điểm i, khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến T từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng, đề nghị Hội đồng xét xử: Ghi nhận bị hại chị Đỗ Thị Bích T2 đã nhận lại tài sản bị mất trộm và không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm.
Bị cáo không tranh luận.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, tỉnh T, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh T, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ căn cứ xác định: Khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 19 tháng 6 năm 2023 tại tiệm cắt tóc của chị Đỗ Thị Bích T2 thuộc ấp T, xã T, huyện T, tỉnh T bị cáo Nguyễn Tiến T đã lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản là 01 điện thoại di động màu nâu đen, có ốp lưng màu hồng, nhãn hiệu Iphone XS, loại 64GB, số Imel: 357208097778128 có giá trị 4.167.000 đồng của chị Đỗ Thị Bích T2 thì bị phát hiện. Do đó, đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Tiến T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự như luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ.
[3] Vụ án có tính chất ít nghiêm trọng nhưng hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ; gây mất trật tự, trị an, xã hội tại địa phương. Khi thực hiện tội phạm bị cáo biết rõ việc trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do chính hành vi của mình gây ra và cần xử lý nghiêm.
[4] Khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét đến nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội ngày 19/6/2023 bị hại chị Đỗ Thị Bích T2, sinh ngày 04/9/2007 (chưa đủ 16 tuổi), nên bị cáo bị áp dụng điểm i, khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Xét thấy, bị cáo có nhân thân xấu, với hành vi phạm tội của bị cáo cần xử phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội, đồng thời có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.
[5] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Ghi nhận bị hại chị Đỗ Thị Bích T2 đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; điểm i, khoản 1 Điều 52: Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguvễn Tiến T 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19 tháng 7 năm 2023.
2. Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Ghi nhận bị hại chị Đỗ Thị Bích T2 đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm.
3. Về án phí: Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Tiến T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh T để xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh T để xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 105/2023/HS-ST
Số hiệu: | 105/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Châu - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về