Bản án về tội trộm cắp tài sản số 104/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 104/2023/HS-ST NGÀY 11/09/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 9 năm 2023 tại Toà án nhân dân thị xã Chơn Thành, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 97/2023/TLST-HS ngày 14 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 105/2023/QĐXXST - HS ngày 22 tháng 8 năm 2023.

Vụ án được xét xử trực tuyến tại 02 điểm cầu:

Điểm cầu trung tâm: Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Chơn Thành, tỉnh Bình Phước. Tại điểm cầu trung tâm gồm có:

Bị hại: Chị Vũ Thị X, sinh năm 2001; Nơi cư trú: Khu phố 9, phường M, thị xã C, tỉnh Bình Phước. (Xin vắng mặt) Điểm cầu thành phần: Nhà tạm giữ Công an thị xã Chơn Thành, tỉnh Bình Phước. Tại điểm cầu thành phần gồm có:

- Bị cáo: HUỲNH VĂN T, sinh năm 1987 tại Sóc Trăng; Tên gọi khác: Không có; Giới tính: Nam; HKTT: Ấp B, xã A, huyện C1, tỉnh Sóc Trăng; Chỗ ở: Tổ 4, khu phố 9, phường M, thị xã C, tỉnh Bình Phước; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 5/12; Nghề nghiệp: Công nhân; Con ông Huỳnh Văn N và bà Thạch Thị D; Vợ: Sơn Thị M (đã ly hôn); Con có hai người sinh năm 2015 và 2016; Tiền án: 01 (Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2018/HSST ngày 04/4/2018 của Toà án nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng xử phạt 04 năm tù. Trong đó 01 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tổng hợp 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” tại bản án hình sự sơ thẩm số 15/2017/HSST ngày 07/9/2017); Tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 18/11/2009 bị Toà án nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng xử phạt 20 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án hình sự sơ thẩm số 06/2009/HSST; Ngày 24/9/2004 bị công an huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi gây tổn hại đến sức khoẻ của người khác; Ngày 21/11/2016 bị Công an huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc”. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/5/2023 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Cán bộ hỗ trợ tổ chức phiên tòa tại điểm cầu thành phần: Ông Trần Thế Q - Cán bộ Đội CSTHAHS & HTTP Công an thị xã Chơn Thành, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 3/2023, HUỲNH VĂN T đến làm công nhân tại xưởng ván lạng “T T” địa chỉ tại khu phố 9, phường M, thị xã C, tỉnh Bình Phước do anh Đoàn Văn C2 (H1) làm chủ. Vào khoảng 11 giờ ngày 09/05/2023, T mượn xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, biển số 51R6-xxxx của anh Đoàn Văn Chung để đến tiệm tạp hoá “Tuyền Nhạn” thuộc khu phố 9, phường M, thị xã C (cách xưởng ván lạng khoảng 300 mét) do chị Vũ Thị X, sinh năm 2001 làm chủ để mua nước đá. Khi đến tiệm tạp hóa, T phát hiện điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, 14 Pro Max, 256Gb, màu tím của chị X để tại quầy tính tiền, không có người trông coi nên T nảy sinh ý định trộm cắp điện thoại nêu trên. Sau đó, T đi đến khu vực tính tiền lấy trộm điện thoại giấu vào lưng quần rồi điều khiển xe mô tô biển số 51R6- xxxx đi về xưởng. Khi về đến xưởng ván lạng “T T”, T tắt nguồn máy, bỏ điện thoại vào túi nylon màu đen rồi mang điện thoại cất giấu dưới nền gạch gần phòng trọ của T.

Chị Vũ Thị X sau khi phát hiện bị mất trộm điện thoại, chị X tiến hành kiểm tra Camera an ninh của tiệm tạp hóa thì phát hiện HUỲNH VĂN T đã lấy trộm điện thoại nên đến Công an phường M, thị xã C để trình báo.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 44/KLĐG ngày 15/5/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự thị xã Chơn Thành xác định: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, 14 Pro Max, 256Gb, màu tím của chị Vũ Thị X trị giá 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng).

Về vật chứng:

- Tạm giữ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, 14 Pro Max, 256Gb, màu tím là tài sản HUỲNH VĂN T chiếm đoạt của chị Vũ Thị X, nên cơ quan Điều tra đã trả cho chị X.

- Tạm giữ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, biển số 51R6-xxxx, số máy: FMHWL-003899, số khung: ND71A-03899 là phương tiện mà HUỲNH VĂN T sử dụng đi trộm cắp tài sản. Quá trình điều tra xác định xe mô tô này do anh Nguyễn Thanh P, sinh năm 1981, nơi cư trú: 3/7 đường Quang Trung, phường 12, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh đứng tên chủ sở hữu. Anh Phước bán lại xe mô tô cho Đoàn Văn Chung nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Mục đích ban đầu T mượn xe mô tô của anh C2 để đi mua nước đá, sau đó mới phát sinh lấy trộm tài sản của chị X, nên cơ quan Điều tra đã trả cho anh C2.

- Thu giữ 01 (một) dữ liệu điện tử (USB) được niêm phong, bên trong lưu trữ đoạn video được trích xuất từ camera an ninh của tiệm tạp hoá “Tuyền Nhạn”, ghi lại hình ảnh phạm tội của HUỲNH VĂN T (đi kèm theo hồ sơ vụ án).

Về trách nhiệm dân sự:

Chị Vũ Thị X đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, chị X không yêu cầu HUỲNH VĂN T bồi thường gì thêm.

Bản cáo trạng số 102/CTr-VKS, ngày 11 tháng 8 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Chơn Thành, tỉnh Bình Phước truy tố bị cáo HUỲNH VĂN T phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Chơn Thành giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo HUỲNH VĂN T phạm tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; các điều 38, 50 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo HUỲNH VĂN T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Chơn Thành, tỉnh Bình Phước đã truy tố. Bị cáo không tranh luận, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên toà, bị hại Vũ Thị X xin vắng mặt. Xét thấy, việc vắng mặt của bị hại không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên căn cứ vào khoản 1 Điều 292 Bộ luật tố tụng Hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án.

[3]. Về hành vi phạm tội và tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo.

Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, phù hợp với lời khai của bị hại cũng như phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 09/5/2023, tại khu phố 9, phường M, thị xã C, tỉnh Bình Phước, HUỲNH VĂN T lợi dụng sơ hở trong quản lý tài sản của chị Vũ Thị X đã lén lút chiếm đoạt của chị X 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, 14 Pro Max, 256Gb, màu tím trị gía 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng). Hành vi của HUỲNH VĂN T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản được pháp luật bảo vệ, đồng thời gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự; có đầy đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của mình nên phải chịu trách nhiệm hình sự.

Xét thấy, bị cáo đã nhiều lần bị kết án về hành vi chiếm đoạt tài sản, nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà vẫn tiếp tục phạm tội nên phải xử phạt bị cáo nghiêm khắc để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4]. Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4.1]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có tiền án chưa được xoá án tích nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4.2]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5]. Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy hiện tại bị cáo là người không có việc làm, thu nhập không ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về trách nhiệm dân sự:

Chị Vũ Thị X đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, chị X không yêu cầu HUỲNH VĂN T bồi thường gì thêm nên trách nhiệm dân sự không đặt ra. [7]. Về vật chứng của vụ án:

Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, 14 Pro Max, 256Gb và 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, biển số 51R6-xxxx, cơ quan Điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là đúng qui định của pháp luật.

Đối với 01 (một) dữ liệu điện tử (USB) được niêm phong, bên trong lưu trữ đoạn video được trích xuất từ camera an ninh của tiệm tạp hoá “Tuyền Nhạn”, ghi lại hình ảnh phạm tội của HUỲNH VĂN T lưu giữ theo hồ sơ vụ án.

[8]. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Chơn Thành, tỉnh Bình Phước về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[9]. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, 50 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo HUỲNH VĂN T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo HUỲNH VĂN T 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/5/2023.

3. Về các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Lưu giữ theo hồ sơ vụ án 01 (một) dữ liệu điện tử (USB) được niêm phong, bên trong lưu trữ đoạn video được trích xuất từ camera an ninh của tiệm tạp hoá “Tuyền Nhạn”, ghi lại hình ảnh phạm tội của HUỲNH VĂN T.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo HUỲNH VĂN T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

2
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 104/2023/HS-ST

Số hiệu:104/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chơn Thành - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:11/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về