Bản án về tội trộm cắp tài sản số 104/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 104/2023/HS-ST NGÀY 15/03/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 3 năm 2023, tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 77/2023/HSST ngày 15 tháng 02 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 82/2023/QĐXXST-HS ngày 27/02/2023, đối với bị cáo:

Tống Minh L; sinh năm 1989, tại Đ; Nơi cư trú: ấp NP, xã HN 3, huyện TB, tỉnh Đ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên Chúa; Nghề nghiệp: thợ mộc; Trình độ học vấn: 06/12; con ông Tống Minh P, sinh năm 1964 (đã chết) và bà Trần Thị Nh, sinh năm 1966 (còn sống); Gia đình có 05 anh E, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; Sống chung như vợ chồng với Trần Thị Minh A và có 01 con tên Tống Minh Kh, sinh năm 2017; Tiền sự: không.

Tiền án (01): Ngày 25-11-2020, bị Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản". Bị cáo chấp hành xong hình phạt vào ngày 16/10/2021 (chưa được xoá án tích);

Bị cáo bị giam giữ từ ngày 19-11-2022 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đ (có mặt).

- Bị hại: Anh Huỳnh Tâm E, sinh năm 1996;

Địa chỉ: Khu phố 8, phường LB, thành phố BH, tỉnh Đ (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 18/11/2022, Tống Minh L một mình đi bộ từ nhà tại ấp Ngũ Phúc, xã H, T mang theo bộ dụng cụ bẻ khoá xe bằng kim loại gồm 01 (một) khoá số 8 hình chữ L dài 18,5 cm và 01 (một) lục giác mài dẹt dài 5,5 cm (đoản) đến khu vực khu phố 8, phường Long Bình, thành phố Biên Hoà để tìm ai có tài sản sơ hở để trộm cắp. Đến khoảng 21 giờ 15 phút cùng ngày, khi L đi ngang qua dãy trọ địa chỉ số 26/13, tổ 13, khu phố 8, phường Long Bình, thành phố Biên Hoà thì thấy trong hành lang dãy trọ có dựng 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter 135 màu xanh – trắng, biển số 69B1 - xxxxx của anh Huỳnh Tâm E (sinh năm 1996, hộ khẩu thường trú ấp KQ, xã VK, huyện AM, tỉnh Kiên Giang) không có người trông coi nên L đột nhập vào bên trong để lấy trộm. L đi đến vị trí chiếc xe thì thấy xe không khoá cổ xe nên L đã dùng “đoản” mang theo để bẻ ổ khoá xe rồi điều khiển xe tẩu thoát. Sau đó, L đến quán cơm tấm (không tên) trước số nhà 8/1, khu phố 6, phường Tân Hoà, thành phố Biên Hoà, thì gặp chị Phạm Kim N, sinh năm 1988, hộ khẩu thường trú ấp LS, xã XB, huyện CĐ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (là bạn của L) thì L nhờ chị N giữ giùm chiếc xe mô tô vừa trộm cắp được để đi công việc. Đến khoảng 09 giờ 30 phút ngày 19/11/2022, anh Huỳnh Tâm E và anh Đỗ Ngọc Q, sinh năm 1983, hộ khẩu thường trú: tổ 14, khu phố 8, phường LB, thành phố BH, tỉnh Đ (là bạn của anh E) phát hiện Tống Minh L (do hình ảnh L thực hiện hành vi trộm cắp xe của anh E đã bị camera an ninh của nhà trọ ghi lại) đang ở khu vực đường nội bộ thuộc tổ 6, khu phố 8, phường Long Bình, thành phố Biên Hoà nên anh E và anh Q giữ L lại. Lúc này, L thừa nhận đã lấy trộm xe mô tô biển số 69B1- xxxxx của anh E và đến công an phường Long Bình đầu thú khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Công an phường Long Bình lập hồ sơ, chuyển cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà xử lý theo quy định pháp luật.

Sau khi biết xe mô tô biển số 69B1 – xxxxx chị Phạm Kim N đang giữ hộ cho L là xe do L trộm cắp, chị N đã nhờ anh Phạm Hữu H, sinh năm 1994, hộ khẩu thường trú tổ 37, khu phố 4A, phường TH, thành phố BH, tỉnh Đ (là em ruột của chị N) mang xe đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà để giao nộp.

Vật chứng vụ án:

- 01 (một) xe mô tô biển số 69B1 – xxxxx, nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu xanh – trắng, số máy 55P1202512, số khung 5P10DY202489 là tài sản của anh Huỳnh Tâm E. Cơ quan điều tra đã thu hồi, trả lại cho anh E;

- 01 (một) bộ dụng cụ bẻ khoá xe bằng kim loại gồm 01 (một) khoá số 8 hình chữ L dài 18,5 cm và 01 (một) lục giác mài dẹt dài 5,5 cm (đoản) là công cụ của bị can Tống Minh L sử dụng vào việc thực hiện hành vi phạm tội;

- 01 (một) đĩa DVD lưu giữ hình ảnh liên quan đến vụ trộm cắp tài sản (lưu tại hồ sơ).

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 2202/KL – HĐĐGTS ngày 22/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B đã kết luận: “01 (một) xe mô tô biển số 69B1 – xxxxx, nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu xanh – trắng, số máy 55P1202512, số khung 5P10DY202489 có giá trị tài sản định giá là 18.500.000 đồng (mười tám triệu năm trăm nghìn đồng).

Về dân sự: Bị hại Huỳnh Tâm E đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bồi thường.

Tại Cáo trạng số: 93/CT-VKSBH ngày 13 tháng 02 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hoà đã truy tố bị can Tống Minh L về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hoà giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Tống Minh L về tội “Trộm cắp tài sản”. Về tình tiết giảm nhẹ: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo tự nguyện ra đầu thú theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; về tình tiết tăng nặng: bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 14 tháng đến 16 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) bộ dụng cụ bẻ khoá xe bằng kim loại gồm 01 (một) khoá số 8 hình chữ L dài 18,5 cm và 01 (một) lục giác mài dẹt dài 5,5 cm (đoản) là công cụ của Tống Minh L sử dụng vào việc thực hiện hành vi phạm tội;

- Lưu theo hồ sơ vụ án 01 (một) đĩa DVD lưu giữ hình ảnh liên quan đến vụ trộm cắp tài sản.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Đối với chị Phạm Kim N có hành vi giữ hộ xe mô tô biển số 69B1 – xxxxx cho L, chị N không biết đây là tài sản do L phạm tội mà có nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà không xử lý đối với chị N là phù hợp.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung vụ án nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử nhẹ cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi tố tụng, Quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện. Vì vậy, hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều đảm bảo đúng pháp luật.

[2] Lời khai tại phiên tòa của bị cáo Tống Minh L phù hợp với biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú, lời khai bị hại, lời khai của người làm chứng, vật chứng, kết luật định giá và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Qua đó, đã có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 21 giờ 15 phút ngày 18/11/2022, tại nhà trọ số 26/13, tổ 13, khu phố 8, phường Long Bình, thành phố Biên Hoà, Tống Minh L đã có hành vi lén lút lấy trộm 01 (một) xe mô tô biển số 69B1 – xxxxx, nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu xanh – trắng có giá trị định giá là 18.500.000 đồng (mười tám triệu năm trăm nghìn đồng) của anh Huỳnh Tâm E. Hành vi nêu trên của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó, bị cáo Tống Minh L đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Xét nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo thấy: Về tình tiết giảm nhẹ: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện ra đầu thú theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Về tình tiết tăng nặng, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội để răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu tiêu huỷ 01 (một) bộ dụng cụ bẻ khoá xe bằng kim loại gồm 01 (một) khoá số 8 hình chữ L dài 18,5 cm và 01 (một) lục giác mài dẹt dài 5,5 cm (đoản) là công cụ của bị cáo Tống Minh L sử dụng vào việc thực hiện hành vi phạm tội. Lưu theo hồ sơ vụ án 01 (một) đĩa DVD lưu giữ hình ảnh liên quan đến vụ trộm cắp tài sản.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[6] Về quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

- Tuyên bố bị cáo Tống Minh L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Tống Minh L 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày 19/11/2022.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017): Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) bộ dụng cụ bẻ khoá xe bằng kim loại gồm 01 (một) khoá số 8 hình chữ L dài 18,5 cm và 01 (một) lục giác mài dẹt dài 5,5 cm. (Vật chứng trên đã được giao nhận theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 21/02/2023 giữa Chi cục thi hành án dân sự thành phố B và Công an thành phố B). Lưu theo hồ sơ vụ án 01 (một) đĩa DVD lưu giữ hình ảnh liên quan đến vụ trộm cắp tài sản.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 104/2023/HS-ST

Số hiệu:104/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về