Bản án về tội trộm cắp tài sản số 103/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ - TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 103/2023/HS-ST NGÀY 20/06/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 20 tháng 6 năm 2023 tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Rạch Giá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 87/2023/HS-ST ngày 15 tháng 5 năm 2023. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 121/2023/QĐXXST- HS ngày 01 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Quốc Tr, sinh năm: 1973; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Quê quán: Rạch Giá – Kiên Giang; Giới tính: Nam; Nơi ĐKTT và chỗ ở: Số 504 đường Phạm Hùng, phường Vĩnh L, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Tin Lành; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 05/12; Cha: Phạm Thanh Đ (chết); Mẹ: Đào Thị B; Sinh năm: 1953; Vợ: Hồ Hoài P (đã ly hôn); con Phạm Thủy Kiều T, sinh năm: 2003.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Về nhân thân:

Ngày 24/9/1992, bị Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá xử phạt 12 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Bản án số 26, ngày 24/9/1992, đã chấp hành xong hình phạt, đã xóa án tích.

Ngày 07/4/21997, bị Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng trong thời hạn 24 tháng về hành vi Gây rối trật tự công cộng theo Quyết định số 494, đã chấp hành xong, đã xóa tiền sự.

Năm 2001, bị Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng trong thời hạn 24 tháng về hành vi Gây rối trật tự công cộng, đã chấp hành xong, đã xóa tiền sự.

Ngày 17/11/2004, bị Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xử phạt 04 năm tù về tội Cướp giật tài sản theo Bản án số 228, ngày 17/11/2004. Bị cáo kháng cáo, ngày 06/01/2005, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh bác kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo 04 năm tù theo Bản án số 240, ngày 06/01/2005. Đến ngày 13/5/2008, chấp hành xong hình phạt, đã xóa án tích.

Ngày 28/10/2009, bị Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá xử phạt 09 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số 176, ngày 28/10/2009, đã chấp hành xong bản án, đã xóa án tích.

Ngày 18/6/2012, bị Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng trong thời hạn 24 tháng về hành vi Gây rối trật tự công cộng theo Quyết định số: 1279, ngày 18/6/2012, đã chấp hành xong, đã xóa tiền sự.

Bị cáo bị bắt tạm giữ 16/02/2023 bị bắt theo Quyết định truy nã số 06, ngày 13/02/2023, bị tạm giữ đến ngày 19/02/2023 chuyển tạm giam theo Lệnh số 18. Hiện, bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

Bị cáo được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại : Ông Dương Văn Nh, sinh năm 1968. (vắng mặt) Địa chỉ : Số 288, Lâm Quang Ky, P. Vĩnh Qu, TP Rạch Giá, T. Kiên Giang.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Ông Đinh Đại Th, sinh năm 1977 (có mặt) Địa chỉ cư trú: Số 62/2 Vàm Trư, P. Vĩnh Qu, TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

- Bà Đào Thị B, sinh năm: 1953 (có mặt) Số 504 đường Phạm Hùng, phường Vĩnh L, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

- Bà Trần Thị R (vợ ông Nh) Địa chỉ: Số 288, Lâm Quang Ky, P. Vĩnh Qu, TP Rạch Giá, T. Kiên Giang.

* Người là chứng: Ông Lê Văn D, sinh năm 1969. (vắng mặt) Địa chỉ: Hẻm 341 Lâm Quàng Ky, P. Vĩnh L, TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Quốc Tr và ông ông Dương Văn Nh có mối quan hệ quen biết nhau từ trước. Vào khoảng 18 giờ, ngày 24/10/2022, Tr cùng với ông Nh và ông Lê Văn D nhậu tại quán T trên đường Phạm Hùng, phường Vĩnh L, thành phố Rạch Giá. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày tất cả nghỉ nhậu ra về. Khi ra về, ông D đi xe một mình còn Tr điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại: Sirius, màu đen- xám, biển số: 68S1- X của ông Nh chở ông Nh. Khi Tr chở ông Nh đến trước số nhà Lô C1 Căn 6, đường Phạm Hùng, khu phố 4, phường Vĩnh L, thành phố Rạch Giá thì Tr dừng xe cho ông Nh đi vệ sinh. Lúc này, Tr nảy sinh ý định lấy trộm xe mô tô của ông Nh bán lấy tiền tiêu xài. Tr quan sát thấy ông Nh đang đi vệ sinh cách chỗ Tr khoảng 05 mét và không chú ý tới mình thì Tr liền điều khiển xe mô tô của ông Nh chạy đi. Xe mô tô lấy trộm được, Tr mang đến cầm cho ông Đinh Đại Th với số tiền 2.500.000 đồng (hai triệu năm trăm nghìn đồng). Sau khi trừ hoa hồng, ông Th đưa cho Tr 2.300.000 đồng (hai triệu ba trăm nghìn đồng). Tại thời điểm cầm xe, ông Th không biết tài sản do Tr phạm tội mà có. Quá trình điều tra, ông Th đã tự nguyện giao nộp xe mô tô trên cho Cơ quan điều tra.

Ông Nh, sau khi phát hiện bị mất tài sản, ngày 01/11/2022 đã đến Công an phường Vĩnh L, thành phố Rạch Giá trình báo. Ngày 14/12/2023, Phạm Quốc Tr bị khởi tố, cấm đi khỏi nơi cư trú để phục vụ điều tra. Lợi dụng việc được tại ngoại Tr bỏ trốn đến ngày 16/02/2023, bị bắt theo Quyết định truy nã.

Trong quá trình điều tra, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; tự nguyện bồi thường cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Đinh Đại Th số tiền 2.300.000 đồng (hai triệu ba trăm nghìn đồng) đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

* Việc thu giữ tài liệu, đồ vật: Cơ quan điều tra đã thu giữ: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại SIRIUS, màu đen-xám, biển số 68S1-X, số máy: 5C61039414, số khung: C6107Y039414, đã qua sử dụng do ông Đinh Đại Th giao nộp.

* Tại Kết luận định giá tài sản số: 173/KL-HĐĐGTS, ngày 21/11/2022 của Hội đồng Định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Rạch Giá, kết luận: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại SIRIUS, màu đen-xám, biển số 68S1- X, số máy: 5C61039414, số khung: C6107Y039414, đã qua sử dụng, tại thời điểm ngày 24/10/2022 có giá trị là 6.100.000 đồng (sáu triệu một trăm nghìn đồng).

* Về phần dân sự Bị hại Dương Văn Nh đã nhận lại tài sản là là xe mô tô biển số 68S1-X; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đinh Đại Th được bị cáo bồi thường số tiền 2.300.000 (hai triệu ba trăm nghìn đồng) và không có yêu cầu gì khác về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo.

* Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Quốc Tr phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Về hình phạt: Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để tuyên phạt cho bị cáo Phạm Quốc Tr mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù. Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô trên cho ông Nh theo Quyết định xử lý tài sản, đồ vật, tài liệu số 02, ngày 12/12/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá nên không đề nghị xem xét.

- Bị cáo Phạm Quốc Tr đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu, đồng thời xin giảm nhẹ hình phạt để sớm có cơ hội quay về làm ăn lương thiện. Lời sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Rạch Giá, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiền hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với nội dung bản cáo trạng, kết luận điều tra và lời khai của những người tham gia tố tụng khác, cùng các chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ và vật chứng đã thu giữ. Từ đó có đủ cơ sở để kết luận: Vì muốn có tiền tiêu xài vào khoảng 21 giờ, ngày 24/10/2022, tại trước số nhà Lô C1 Căn 6, đường Phạm Hùng, khu phố 4, phường Vĩnh L, thành phố Rạch Giá Phạm Quốc Tr đã lấy trộm của ông Dương Văn Nh xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại SIRIUS, màu đen-xám, biển số 68S1-X. Qua định giá, tại thời điểm ngày 24/10/2022 có giá trị là 6.100.000 đồng (sáu triệu một trăm nghìn đồng). Hành vi trên của bị cáo Phạm Quốc Tr đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Do đó, bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá đã truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như đã viện dẫn trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[3] Xét tính chất mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản với lỗi cố ý trực tiếp, bị cáo nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật nhưng vì bản tính lười lao động lại muốn có tiền tiêu xài và để sử dụng ma tuý nên bị cáo đã lợi dụng sư sơ hở của người bị hại lén lút thực hiện trộm cắp tài sản nhằm chiếm đoạt tài sản của người bị hại một cách trái pháp luật. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sỡ hữu về tài sản được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trị an của địa phương, gây bất an trong nhân dân. Sau khi phạm tội bị cáo bỏ trốn làm cản trở quá trình điều tra kết thúc vụ án của cơ quan chức năng.

Hơn thế nữa bị cáo là người có nhân thân rất xấu bị cáo đã từng bị xử phạt 03 lần về các hành vi “ Cướp giật tài sản; Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Trộm cắp tài sản” và 03 lần bị xử lý hành chính áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng về hành vi “Gây rối trật tự công cộng” điều này thể hiện sự xem thường và bất chấp pháp luật của bị cáo. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cần có hình phạt tương xứng đối với bị cáo, đồng thời cách ly bị cáo một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Phạm Quốc Tr không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tiền án tiền sự, tuy nhiên bị cáo là người có nhân thân rất xấu đã từng bị Toà án xử phạt 03 lần về các hành vi “Cướp giật tài sản; Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Trộm cắp tài sản” và 03 lần bị xử lý hành chính áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã bồi thường khắc phục hậu quả, tài sản trộm được đã được trao trả lại cho bị hại. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 BLHS khi lượng hình.

Xét thấy, mức hình phạt theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Tr không có nghề nghiệp; thu nhập không ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo khoản 5 Điều 173 Bộ Luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017 đối với bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Dương Văn Nh đã nhận lại tài sản là là xe mô tô biển số 68S1-X và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đinh Đại Th được bị cáo bồi thường số tiền 2.300.000 (hai triệu ba trăm nghìn đồng) và không có yêu cầu gì khác về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo nên HĐXX không xem xét.

[8] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS:

Xét thấy Cơ quan điều tra đã trả lại 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại SIRIUS, màu đen-xám, biển số 68S1-X, số máy: 5C61039414, số khung: C6107Y039414, đã qua sử dụng cho ông Nh theo Quyết định xử lý tài sản, đồ vật, tài liệu số 02, ngày 12/12/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá nên HĐXX không xem xét.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 199 BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về án phí lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phạm Quốc Tr phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Quốc Tr phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Quốc Tr – 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ tạm giam 16/02/2023.

* Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Phạm Quốc Tr phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

* Quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 20/6/2023). Riêng người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt, người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận Bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

46
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 103/2023/HS-ST

Số hiệu:103/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về