Bản án về tội trộm cắp tài sản số 10/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI – TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 10/2023/HS-ST NGÀY 21/12/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21/12/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 13/2023/HSST, ngày 16/11/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/QĐXXST- HS, ngày 08/12/2023, đối với bị cáo:

Vũ Văn C, sinh ngày 09/12/1979, tại Bắc Kạn;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn N, xã N, huyện C, tỉnh Bắc Kạn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Đình M (đã chết) và bà Trần Thị M; chưa có vợ, con; tiền án: Có 02 tiền án (Bản án số 57/HSST, ngày 20/8/1998 của TAND tỉnh Bắc Kạn xử phạt 10 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”; bản án số 23/HSST, ngày 26/9/2011 của TAND huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn xử phạt 10 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”), cả hai bản án chưa được xoá án tích; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/9/2023 đến nay - Có mặt tại phiên toà.

* Người bào chữa cho bị cáo: Bà Đỗ Thị Xuân – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bắc Kạn – Vắng mặt tại phiên toà (có đơn xét xử vắng mặt).

* Bị hại:

1, Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1976;

Địa chỉ: Thôn N, xã N, huyện C, tỉnh Bắc Kạn - Vắng mặt tại phiên toà (có đơn xét xử vắng mặt).

2, Ông Hà Thanh H, sinh năm 1983;

Địa chỉ: Thôn S, xã N, huyện C, tỉnh Bắc Kạn - Vắng mặt tại phiên toà (có đơn xét xử vắng mặt).

3, Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1990;

Địa chỉ: Xóm C, xã P, huyện P, tỉnh Thái Nguyên - Vắng mặt tại phiên toà (có đơn xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 04 giờ ngày 05/6/2023 Vũ Văn C một mình đi từ nhà ra đường quốc lộ 3 đến nhà bà Nguyễn Thị H với mục đích để trộm cắp tài sản. Khi đến nơi C lén lút đi vòng ra phía sau nhà đến giếng nước, rồi tháo lấy trộm một máy bơm nước mang đi bán cho một người không quen biết ở thành phố Bắc Kạn được 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng). Đến Khoảng 04 giờ ngày 12/6/2023 C đi bộ đến nhà bà Nguyễn Thị H tiếp tục lấy trộm 01 chiếc bếp ga mang đến chợ đồ cũ thành phố Bắc Kạn bán cho một người lạ được 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng). Khoảng 04 giờ ngày 19/6/2023 C một mình đi bộ lén lút trèo qua tường bao phía sau nhà ông Hà Thanh H vào giếng nước lấy trộm 02 máy bơm nước mang đi thành phố Bắc Kạn bán được 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng). Khoảng 20 giờ 40 phút ngày 04/9/2023, C từ nhà đi ra đường quốc lộ 3 thấy có một xe ô tô đầu kéo BKS 20C- 127.xx kéo theo sơ mi rơ mooc BKS 20R-005.xx đang dừng sát lề đường hướng Hà Nội – Cao Bằng, lái xe ô tô là ông Nguyễn Văn T, đang dừng xe để làm việc với tổ Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Bắc Kạn, lúc này xe ô tô đầu kéo vẫn nổ máy, bật đèn pha nên C nảy sinh ý định lên xe trộm cắp tài sản. C lén lút đến cửa xe đầu kéo trèo lên ca bin lấy trộm được 01 chiếc điện thoại di động và 01 chiếc ví rồi ra khỏi ca bin xe ô tô đầu kéo, đi bộ đến bờ ruộng trước cửa nhà ở của mình nhặt lấy một túi ni lông bọc chiếc điện thoại lại giấu vào bụi cỏ rồi về nhà. Khi đến nhà C đếm số tiền vừa trộm được là 2.345.000đ (Hai triệu, ba trăm năm mươi tư nghìn đồng). Sáng ngày 05/9/2023 C cầm số tiền trên đi mua ma túy về sử dụng và tiêu sài cá nhân hết; đến tối cùng ngày C đến Công an xã N, huyện Chợ Mới đầu thú về hành vi trộm cắp tài sản, tiền và giao nộp chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO Y51.

Tại Kết luận định giá tài sản số 29/KL-HĐĐGTSTTHS ngày 05/9/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Chợ Mới kết luận:

- Giá trị của chiếc máy bơm nước nhãn hiệu Cá Sấu 370W tại thời điểm xảy ra vụ việc ngày 05/6/2023 là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

- Giá trị chiếc bếp ga đôi, mặt kính tại thời điểm xảy ra vụ việc ngày 12/6/2023 là 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng).

- Giá trị 02 chiếc máy bơm nước nhãn hiệu Bảo Long 370W và 750W tại thời điểm xảy ra vụ việc ngày 19/6/2023 là 1.756.000đ (Một triệu, bảy trăm năm mươi sáu nghìn đồng). Tổng cộng: 2.556.000đ (Hai triệu, năm trăm năm mươi sáu nghìn đồng).

Tại kết luận định giá tài sản số 34/KL-HĐĐGTSTTHS ngày 18/9/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Chợ Mới kết luận: Giá trị của chiếc điện thoại di động VIVO Y51 màu xanh, tại thời điểm xảy ra vụ việc ngày 04/9/2023 là 3.000.000(Ba triệu đồng).

Với các hành vi nêu trên, tại bản cáo trạng số 49/CT-VKS, ngày 14/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố bị cáo Vũ Văn C về tội "Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173/BLHS.

Điều luật có nội dung:

"1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng ...thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm;

2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

g) Tái phạm nguy hiểm;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới vẫn giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vũ Văn C phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Về hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50/BLHS, xử phạt bị cáo từ 36 đến 42 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 06/9/2023.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.

Về án phí: Đề nghị áp dụng Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH, đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

4 Quá trình tranh luận: - Tại bản luận cứ của người bào chữa trình bày lời bào chữa: Việc truy tố xét xử bị cáo là đúng người, đúng tội nhưng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đầu thú về hành vi phạm tội; gia đình thuộc hộ nghèo. Đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất và xin được miễn khoản tiền án phí.

- Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, nhất trí và không có ý kiến gì bổ sung vào bản luận cứ bào chữa.

Kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng: Xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng và các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp và đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 04 giờ ngày 05/6/2023 Vũ Văn C có hành vi trộm cắp 01 chiếc máy bơm nước của bà Nguyễn Thị H, đến khoảng 04 giờ ngày 12/6/2023 C tiếp tục trộm cắp 01 chiếc bếp ga của gia đình bà H; đến khoảng 04 giờ sáng ngày 19/6/2023 C tiếp tục vào nhà ông Hà Thanh H trộm cắp 02 chiếc máy bơm nước. Tổng giá trị tài sản C trộm cắp của bà H và ông H là 2.556.000đ (Hai triệu, năm trăm năm mươi sáu nghìn đồng). Khoảng 20 giờ 40 phút ngày o4/9/2023 C tiếp tục trộm cắp của ông Nguyễn Văn T 01 chiếc điện thoại di động có trị giá là 3.000.000đ (Ba triệu đồng) và số tiền 2.345.000đ (Hai triệu, ba trăm bốn mươi lăm nghìn đồng).

Tổng giá trị tài sản, tiền bị cáo Vũ Văn C trộm cắp là 7.901.000đ (Bảy triệu, chín trăm linh một nghìn đồng).

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo Vũ Văn C đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

Tổng hợp các chứng cứ lại, đánh giá diễn biến khách quan của vụ án thấy việc truy tố, xét xử bị cáo Vũ Văn C về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173/BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác; gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an xã hội tại địa phương. Vì vậy cần phải xử lý bằng pháp luật hình sự nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo: Bị cáo Vũ Văn C có nhân thân xấu, đã có hai tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” đến nay chưa được xoá án tích. Nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà còn tiếp tục phạm tội. Bởi vậy cần phải có một mức án thật nghiêm khắc mới có thể cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và cộng đồng xã hội; bị cáo phải chịu một tình tiết tăng nặng là “Phạm tội 02 lần trở lên” được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52/BLHS; được hưởng các tình tiết giảm nhẹ là “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” “Đầu thú” được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản và nguồn thu nhập ổn định nào, khi áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền thì không có tính khả thi, vì vậy không áp dụng đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại là bà Nguyễn Thị H, ông Hà Thanh H và ông Nguyễn Văn T không yêu cầu bị cáo bồi thường. Vì vậy Hội đồng xét xử sẽ ghi nhận trong bản án.

[6] Về án phí: Do bị cáo thuộc hộ nghèo và có đơn xin miễn án phí. Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo được miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Đối với những người mua tài sản trộm cắp của Vũ Văn C tại thành phố Bắc Kạn, quá trình điều tra Cơ quan điều tra không xác định được tên tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để xử lý.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Vũ Văn C phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50/Bộ luật Hình sự.

+ Xử phạt bị cáo Vũ Văn C 42 (Bốn mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 06/9/2023.

2. Về biện pháp tư pháp: - Áp dụng khoản 2 Điều 47/BLHS và Điều 194/BLDS.

+ Ghi nhận các bị hại là bà Nguyễn Thị H không yêu cầu bị cáo Vũ Văn C phải bồi thường số tiền 800.000đ (Tám trăm nghìn đồng), ông Hà Thanh H không yêu cầu bị cáo Vũ Văn C phải bồi thường số tiền 1.756.000đ (Một triệu, bảy trăm năm mươi sáu nghìn đồng) và ông Nguyễn Văn T không yêu cầu bị cáo Vũ Văn C phải bồi thường số tiền 2.345.000đ (Hai triệu, ba trăm bốn mươi lăm nghìn đồng).

3. Về án phí: - Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

+ Bị cáo Vũ Văn C được miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

4. Về quyền kháng cáo: - Áp dụng Điều 331, 333/BLTTHS.

+ Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 10/2023/HS-ST

Số hiệu:10/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về