Bản án về tội trộm cắp tài sản số 101/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 101/2023/HS-ST NGÀY 25/08/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 95/2023/TLST-HS, ngày 03 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 91/2023/HSST-QĐ ngày 10 tháng 8 năm 2023, Thông báo thay đổi thời gian xét xử số 11/TB-TA ngày 14 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:

Trn Văn V., sinh ngày 01/8/1997 tại huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang; Nơi cư trú: Thôn K, xã V, huyện S, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 3/12, dân tộc: Cao Lan; con ông Trần Văn Y, sinh năm 1962 và bà: Tô Thị C, sinh năm 1966; vợ, con: Chưa có; anh chị em ruột: Có 05 người, bị cáo là con thứ 4.

- Tiền sự: Quyết định số 379/QĐ-XPHC ngày 17/11/2022 của Công an huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang xử phạt Trần Văn V. 2.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản (bị cáo V. chưa nộp phạt).

- Tiền án: Bản án số 62/2021/HSST ngày 28/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương xử phạt bị cáo V. 01 năm 03 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 25/01/2022, bị cáo chấp hành xong toàn bộ Bản án.

- Nhân thân: Quyết định số 15/QĐ-TA ngày 03/02/2021 của Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương áp dụng biện pháp xử lý hành chính Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian 15 tháng (bị cáo được miễn chấp hành Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính do ngày 28/4/2021 bị TAND huyện Sơn Dương xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 117 Luật xử lý vi phạm hành chính).

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30 tháng 06 năm 2023, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Sơn Dương (có mặt).

Ngưi bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị N. – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Tuyên Quang (có mặt).

* Bị hại: Anh Nguyễn Anh T., sinh năm 1996 Địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 28/6/2023, bị cáo Trần Văn V. một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu LISOHAKA, màu nâu, số khung VLKDCG012LK079842, số máy XS150FMG2000079842, không có biển số xe (xe của V.) mục đích xem nhà ai có sơ hở để trộm cắp tài sản. Khoảng 22 giờ cùng ngày, V. đi đến nhà anh Nguyễn Anh T. ở thôn L, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang, thấy mọi người đã đi ngủ, V. để xe mô tô ở ven đường rồi trèo qua tường rào xây vào phía sau nhà Anh T. lấy trộm được 01 máy cắt cỏ nhãn hiệu TANAKA, màu cam, chiều dài 1,7m, không có lưỡi cắt mang về nhà cất giấu. Khoảng 03 giờ 30 phút ngày 29/6/2023, V. điều khiển xe mô tô chở theo chiếc máy cắt cỏ mang đi tìm nơi tiêu thụ. Khi đến đoạn đường ĐT 186 thuộc thôn Gia Cát, xã Phú Lương, huyện Sơn Dương thì bị Tổ công tác của Công an xã P. kiểm tra, nghi trộm cắp tài sản đã yêu cầu V. về Trụ sở làm việc. Tại đây, bị cáo V. khai nhận đã trộm cắp chiếc máy cắt cỏ nêu trên. Cơ quan Công an xã P. đã lập biên bản sự việc và thu giữ vật chứng gồm 01 xe mô tô nhãn hiệu LISOHAKA, màu nâu, không có biển số xe và 01 máy cắt cỏ nhãn hiệu TANAKA, màu cam. Sáng ngày 29/6/2023, Anh T. phát hiện bị mất trộm chiếc máy cắt cỏ, đã trình báo Cơ quan Công an đề nghị giải quyết theo quy định.

Cùng ngày 29/6/2023, xét nghiệm tìm chất ma túy trong cơ thể Trần Văn V., kết quả: (+) dương tính với ma túy Morphin. V. khai nhận ngày 28/6/2023 đã sử dụng ma túy tại thị trấn L., huyện L., tỉnh Vĩnh Phúc.

Tại kết luận định giá tài sản số 65/KL-HĐĐGTSTTHS ngày 30/6/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Sơn Dương, kết luận: 01 máy phát cỏ (cắt cỏ), động cơ xăng, màu cam, trên thân máy có ghi chữ TANAKA, không có lưỡi dao cắt cỏ, tính đến thời điểm bị trộm cắp tháng 06/2023 là 1.700.000 đồng (Một triệu bảy trăm nghìn đồng).

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 101/CT-VKSSD ngày 02 tháng 8 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Trần Văn V. về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Văn V. phạm tội “Trộm cắp tài sản” Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 - Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Trần Văn V. từ 09 (chín) tháng đến 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam (30/6/2023).

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô nhãn hiệu LISOHAKA, màu nâu, không có biển số xe nhưng giữ lại để đảm bảo việc Thi hành án.

Ngoài ra, Đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung, miễn nộp khoản tiền án phí cho bị cáo và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn V. đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung cáo trạng truy tố đối với bị cáo; bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình. Khi nói lời sau cùng bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

Người bào chữa cho bị cáo Trần Văn V. trình bày lời bào chữa thể hiện quan điểm nhất trí với tội danh và điều luật Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có bố đẻ tham gia dân quân hỏa tuyết được hưởng chế độ của Nhà nước; gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo ở địa phương. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét: Về hình phạt, đề nghị xử bị cáo mức án khởi điểm của khung hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về vật chứng, đề nghị trả lại cho bị cáo chiếc xe mô tô nhãn hiệu LISOHAKA, màu nâu, không có biển số xe. Về án phí, đề nghị miễn nộp khoản tiền án phí hình sự sơ thẩm vì bị cáo thuộc diện hộ nghèo.

Bị hại anh Nguyễn Anh T. khai tại cơ quan điều tra (Bút lục: từ số 20 - 24) thể hiện: Sáng ngày 29/6/2023, anh phát hiện bị mất trộm 01 chiếc máy cắt cỏ, động cơ xăng, màu cam, trên thân máy có ghi chữ TANAKA, chiều dài 1,7m, không có lưỡi dao cắt cỏ nên đã trình báo cơ quan Công an để giải quyết. Về dân sự anh đã nhận lại chiếc máy cắt cỏ, không có yêu cầu, đề nghị gì khác. Về hành vi của bị cáo đề nghị xem xét xử lý theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn V. tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và cáo trạng truy tố đối với bị cáo. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh qua biên bản khám nghiệm hiện trường, lời khai của bị hại, kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 22 giờ ngày 28/6/2023, tại thôn L, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang, bị cáo Trần Văn V. đã có hành vi trộm 01 máy cắt cỏ nhãn hiệu TANAKA, màu cam, chiều dài 1,7m, không có lưỡi cắt trị giá 1.700.000 đồng (Một triệu bảy trăm nghìn đồng) của anh Nguyễn Anh T..

Mặc dù giá trị tài sản chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng, nhưng bị cáo Trần Văn V. có nhân thân xấu, có 01 tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản (Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 379/QĐ-XPHC ngày 17/11/2022 của Công an huyện Sơn Dương, V. chưa thi hành nộp phạt). Hành vi của bị cáo thuộc trường hợp “Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo là người có năng lực và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Hành vi của bị cáo được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật và có cơ sở, cần chấp nhận.

[2]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 28/4/2021 bị cáo Trần Văn V. bị Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (Bản án số 62/2021/HSST), ngày 25/01/2022 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích đã phạm tội mới, phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại đoạn 1 điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có bố đẻ tham gia dân quân hỏa tuyến được hưởng chế độ trợ cấp của Nhà nước. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần xem xét áp dụng đối với bị cáo để lên mức án cho phù hợp.

[3]. Về mức án đối với bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu để thực hiện hành vi trộm cắp nhằm chiếm đoạt tài sản. Hành vi đó đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây bất bình trong quần chúng nhân dân và gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu, có tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản và tiền án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo không lấy đó làm bài học cải tạo bản thân còn phạm tội mới. Vì vậy, cần có mức án nghiêm khắc áp dụng hình phạt tù có thời hạn nhất định tương xứng hành vi phạm tội mới cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt và phòng ngừa tội phạm chung.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét mức án mà đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa cho bị cáo đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định được bị cáo thuộc hộ nghèo, không có tài sản riêng có giá trị, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[5]. Về dân sự: Anh Nguyễn Anh T. đã nhận lại tài sản bị mất và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về vật chứng: Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu LISOHAKA, màu nâu, số khung VLKDCG012LK079842, số máy XS150FMG2000079842, không có biển số xe, đây là tài sản của bị cáo cần tuyên trả lại cho bị cáo nhưng giữ lại để đảm bảo việc Thi hành án.

Đối với 01 máy cắt cỏ nhãn hiệu TANAKA, màu cam, ngày 27/7/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Nguyễn Anh T., do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về các vấn đề khác:

Về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Trần Văn V. vào ngày 28/6/2023. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương đã có văn bản đề nghị Công an huyện L., tỉnh Vĩnh Phúc xử lý theo quy định nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[9]. Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo Trần Văn V. thuộc diện hộ nghèo nên được miễn nộp khoản tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1, Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 - Bộ luật Hình sự - Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn V. phạm tội “Trộm cắp tài sản.

- Xử phạt bị cáo Trần Văn V. 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam (30/06/2023).

2. Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô nhãn hiệu LISOHAKA, màu nâu, không có biển số xe là tài sản của bị cáo nhưng giữ lại để đảm bảo việc thi hành án.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Sơn Dương với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sơn Dương ngày 04/8/2023).

3. Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 - Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

- Về án phí: Miễn nộp khoản tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Trần Văn V..

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

66
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 101/2023/HS-ST

Số hiệu:101/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:25/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về