TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ H
BẢN ÁN 101/2022/HS-ST NGÀY 29/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 9 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, Tòa án nhân dân huyện Tỷ Nguyên, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 90/2022/HSST ngày 14 tháng 9 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 99/2021/QĐXXST-HS, ngày 15 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:
Vũ Thị K L, sinh năm 1986, tại T; Giới tính: Nữ; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 12, phường T, thành phố T, tỉnh T; Nơi tạm trú: Thôn 9, xã H, huyện T, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Huy P và bà Hà Thị K; gia đình có 02 chị em, bị cáo là con lớn; họ tên chồng Triệu Văn D, sinh năm 1983 (đã ly hôn); có 01 con sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: không; bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chạn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 03/8/2022; có mặt.
- Bị hại:
Chị Nguyễn Thị Hoài T, sinh năm 1984; Nơi cư trú: Thôn B, xã D, huyện T, thành phố H; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ ngày 22/6/2022 công an xã D nhận được đơn trình báo của chị Nguyễn Thị Hoài T về việc con lợn đất đựng tiền tiết kiệm của chị bị kẻ gian đập vỡ 01 lỗ khoảng 5 x 4cm lấy mất số tiền khoảng 6.000.000 đồng. Sau khi nhận được tin báo, công an xã D đã báo cáo phối hợp với Cơ quan điều tra tiến hành điều tra, xác minh theo quy định. Cơ quan điều tra T giữ 01 con lợn đất bên trong có số tiền là 14.800.000 đồng của chị T. Đến 20h40 phút cùng ngày Vũ Thị K L là người làm Tê cho gia đình chị T đã đến cơ quan công an đầu thú và tự nguyện giao nộp số tiền 5.000.000 đồng, 01 chìa khóa xe máy dài khoảng 7cm.
Tại cơ quan điều tra Vũ Thị K L khai: Khoảng 7 giờ ngày 22/6/2022, L cùng chị Lê Thị Hoài T và chị Đoàn Thị Lươm đến làm Tê dọn dẹp nhà cửa cho gia đình chị T, đến khoảng 9 giờ cùng ngày trong lúc đang dọn nhà, L quan sát cửa phòng ngủ tầng 2 nhà chị T không khóa bên trong có 01 con lợn đất màu vàng hoa văn màu đỏ để tiền tiết kiệm nên đã nảy sinh ý định lấy trộm tiền trong lợn đất. Quan sát thấy chị Lươm và chị Hoài lên tầng 3 dọn dẹp chị T đang ở dưới tầng 1, L đi vào phòng ngủ tầng 2 lấy con lợn đất ra rồi dùng chìa khóa xe máy dài khoảng 7cm cậy vỡ khe đút tiền, sau đó L móc tiền trong lợn đất ra cất cất giấu vào túi quần bên phải đang mặc. Sau khi lấy được tiền, L để lợn đất vào vị trí cũ, chùm chăn lên để tránh bị phát hiện rồi điều khiển xe mô tô về nhà trọ ở thôn 9, xã H, huyện T đếm tiền vừa lấy được của chị T là 6.200.000 đồng, L trả cho bà Lê Thị H chủ nhà trọ số tiền 1.200.000 đồng tiền Tê phòng trọ. Số tiền 5.000.000 đồng còn lại L tự nguyện giao nộp cho cơ quan Công an, việc L chiếm đoạt tài sản của chị T chỉ một mình L thực hiện không có ai khác tham gia cùng.
Người có quyền lợi nghĩa vụ L quan bà Lê Thị H khai nhận phù hợp với nội dung nêu trên. Sau khi biết số tiền 1.200.000 đồng L trả tiền Tê nhà trọ là tiền do L chiếm đoạt mà có bà H đã tự nguyện giao nộp cho cơ quan công an.
Bản cáo trạng số: 99/CT-VKS ngày 13/9/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tỷ Nguyên đã truy tố Vũ Thị K L về tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1, Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo Vũ Thị K L khai nhận và thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Bị hại chị Nguyễn Thị Hoài T vắng mặt tại phiên tòa, song đã có lời khai tại cơ quan điều tra trình bày: Toàn bộ số tiền bị cáo chiếm đoạt đã được cơ quan điều tra trả lại cho chị, chị T không có yêu cầu đề nghị gì, có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T giữ nguyên quan điểm truy tố Vũ Thị K L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự và đề nghị, Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1, Điều 173; điểm i, h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Vũ Thị K L từ 12 đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách tương ứng, giao bị cáo về chính quyền địa phương nơi cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; không yêu cầu hình phạt bổ sung đối với bị cáo; về trách nhiệm dân sự: Đã được giải quyết xong tại giai đoạn điều tra nên không đề cập giải quyết; về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thutiêu hủy: 01 chìa khóa xe máy dài 07cm, chìa khóa xe mô tô nhãn hiệu Honda có phần cán bằng nhựa màu đen; Về án phí: Bị cáo Vũ Thị K L phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Viện kiểm sát nhân dân huyện T và người tiến hành tố tụng Tộc các cơ quan này trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, đủ căn cứ kết luận: Bị cáo là người lao động tự do được chị Lê Thị T Hoài và chị Đoàn Thị Lươm rủ đi dọn dẹp nhà Tê cho gia đình chị Nguyễn Thị Hoài T, tại thôn B, xã D, huyện T, thành phố H. Tại nhà chị T khoảng 9h, ngày 22/6/2022 bị cáo đã có hành vi lợi dụng sơ hở, lén lút dùng chìa khóa xe máy cậy vỡ khe nhét tiền con lợn đất trong phòng ngủ tầng 2 của chị Nguyễn Thị Hoài T để chiếm đoạt tài sản là số tiền 6.200.000 đồng. Với hành vi trên, bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Bản cáo trạng số 99/CT-VKSTN ngày 13 tháng 9 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo như đã nêu trên là đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội. Vì vậy cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất mức độ, hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo.
[4] Xem xét đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhân thân bị cáo, tính chất vụ án và quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử, xét:
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tài sản bị cáo chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị Hoài T là số tiền 6.200.000 đồng, sau khi hành vi bị cáo thực hiện bị phát hiện bị cáo đã ra đầu thú và tự nguyện giao nộp lại số tiền để trả lại đầy đủ cho bị hại; tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Ngoài ra bị hại còn có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, h, s khoản 1 và khoản 2, Điều 51 của Bộ luật hình sự nên cần xem xét quyết định hình phạt đối với bị cáo.
Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong vụ án cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Tại phiên tòa tuy bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, vì vậy không cần thiết phải áp dụng hình phạt tù giam đối với bị cáo mà căn cứ Điều 65 Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách như mức đề xuất của kiểm sát viên tại phiên tòa là đủ điều kiện để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[5] Về hình phạt bổ sung Tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền. Biên bản xác minh tài sản của cơ quan điều tra, xác định bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự Bị hại vắng mặt tại phiên tòa song đã có lời khai tại cơ quan điều tra tài sản mà bị cáo chiếm đoạt đã được nhận, bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về xử lý vật chứng Tại Biên bản giao nhận vật chứng và Phiếu nhập kho ngày 13/9/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T vật chứng cần xử lý gồm: 01 chìa khóa xe máy dài 07cm, chìa khóa xe mô tô nhãn hiệu Honda có phần cán bằng nhựa màu đen, đây xác định là công cụ bị cáo dùng vào việc phạm tội không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thutiêu hủy.
[8] Về nội dung khác Trong vụ án này bà Lê Thị H nhận số tiền 1.200.000 đồng của L nhưng không biết là tiền do L phạm tội mà có, bà H đã tự nguyện giao nộp lại số tiền nói trên trả lại cho chị Nguyễn Thị Hoài T, nên Cơ quan điều tra không xử lý là đúng pháp luật.
[9] Về án phí Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự, xử: Phạt bị cáo Vũ Thị K L 15 (Mười năm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 30 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”.
Giao bị cáo Vũ Thị K L về Ủy ban nhân dân phường T, thành phố T, tỉnh T giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về vật chứng: Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thutiêu hủy: 01 chìa khóa xe máy dài 07cm, chìa khóa xe mô tô nhãn hiệu Honda có phần cán bằng nhựa màu đen, tại Biên bản giao nhận vật chứng và Phiếu nhập kho ngày 13/9/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T, thành phố H.
3. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo Vũ Thị K L phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án tống đạt hoặc niêm yết.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 101/2022/HS-ST
Số hiệu: | 101/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tây Hồ - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về