Bản án về tội trộm cắp tài sản số 101/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HOÀNG MAI - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 101/2020/HS-ST NGÀY 27/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 27 tháng 11 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã H, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số: 90/2020/HSST, ngày 28 tháng 10 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số:138/2020/QĐ XXST-HS ngày 16/11/2020 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Lê Vũ Đ (Tên gọi khác: Không); Giới tính: Nam; Sinh ngày 06 tháng 02 năm 1989 tại thị xã H, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Thôn 6, xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Họ và tên cha: Lê Vũ T ; sinh năm 1961; Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị H ; sinh năm 1963; Anh chị em ruột có 4 người, bị cáo là con thứ 4 trong gia đình;Vợ: Nguyễn Thị L , sinh năm 1991; Có 04 con, lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2020; Tiền án: Ngày 30/11/2017 bị Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai xử phạt 15 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 30 tháng về tội Trộm cắp tài sản tại Bản án số: 73/2017/HSST (Bị cáo chưa được xóa án tích). Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 12/10/2020 đến ngày 15/10/2020; Tạm giam: không; Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú (Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa).

- Người bị hại: Chị Hoàng Thị T , sinh năm 1998. (Có mặt) Trú tại: Thôn 6, xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 05 giờ ngày 08/10/2020, Lê Vũ Đ đến nhà bà Lê Thị M , sinh năm 1975 tại thôn 6, xã Q, thị xã H, Nghệ An để hỏi mượn Liềm đi chặt cây làm bẫy đánh chim. Đến nhà bà Mười, Lê Vũ Đ thấy cửa nhà mở, Lê Vũ Đ gọi nhưng không thấy ai trả lời, nên Lê Vũ Đ đi vào trong nhà. Khi đi vào phòng khách Lê Vũ Đ phát hiện trên đầu giường ngủ của Chị Hoàng Thị T , sinh năm 1998 con gái bà Mười có một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F3 đang sạc pin. Biết chị T đang ngủ say Lê Vũ Đ đi đến rút điện thoại và bỏ vào túi quần rồi đi về nhà. Sáng ngày 09/10/2020 bà Mười đến nhà hỏi Lê Vũ Đ về chiếc điện thoại nhưng Lê Vũ Đ chối không nhận. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, Lê Vũ Đ nhận thấy hành vi sai trái của mình nên đã đem chiếc điện đến đặt ở góc sân nhà bà Mười để trả lại. Khoảng 14 giờ ngày 12/10/2020 thì Lê Vũ Đ đã đến Công an xã Quỳnh Lộc, thị xã Hoàng Mai xin đầu thú khai nhận hành vi trộm cắp của mình. Ngày 14/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Hoàng Mai đã yêu cầu định giá tài sản do Lê Vũ Đ chiếm đoạt.Tại kết luận định giá số: 20 ngày 14/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản UBND thị xã Hoàng Mai xác định: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F3, màu trắng, đã qua sử dụng có giá trị tại thời điểm chiếm đoạt là 800.000 đồng.

*Vật chứng thu giữ và tài sản liên quan: Quá trình điều tra Chị Hoàng Thị T đã giao nộp chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F3, màu trắng để phục vụ điều tra. Sau đó, Cơ quan CSĐT Công an thị xã Hoàng Mai đã trả lại cho Chị Hoàng Thị T .

*Về trách nhiệm dân sự: Chị Hoàng Thị T đã nhận lại tài sản chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F3, màu trắng, đã qua sử dụng do Lê Vũ Đ chiếm đoạt, chị không yêu cầu gì thêm.

Tại bản cáo trạng số:100/CT-VKS-HM, ngày 05 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã H, tỉnh Nghệ An truy tố Lê Vũ Đ về tội “ Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã H, tỉnh Nghệ An giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị xử lý đối với bị cáo như sau:

- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Lê Vũ Đ từ 03 tháng đến 06 tháng tù .

- Vật chứng vụ án: Quá trình điều tra Chị Hoàng Thị T đã giao nộp chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F3, màu trắng do Lê Vũ Đ trộm cắp để phục vụ điều tra. Sau đó, Cơ quan CSĐT Công an thị xã Hoàng Mai đã trả lại cho T là đúng qui định.

- Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu gì đối với Lê Vũ Đ nên miễn xét.

- Về án phí: Buộc các bị cáo phải nộp án phí theo quy định tại Điều 135;

Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo, người bị hại không tranh luận đối đáp gì với bản luận tội của đại diện viện kiểm sát, bị cáo, người bị hại đề nghị hội đồng xét xử, xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ buộc tội: Vào khoảng 05 giờ ngày 08/10/2020 Lê Vũ Đ đến nhà bà bà Lê Thị M , sinh năm 1975 tại thôn 6, xã Q, thị xã H, Nghệ An để hỏi mượn Liềm đi chặt cây làm bẫy đánh chim. Gọi cửa không thấy chủ nhà trả lời, nên Lê Vũ Đ nãy ý định trộm cắp tài sản. Lê Vũ Đ đi vào trong phòng khách, sau đó đi vào phòng ngủ của Chị Hoàng Thị T lấy trộm của chị T con gái bà Mười 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F3, màu trắng mà chị T đang sạc pin để đầu giường ngủ. Điện thoại Lê Vũ Đ trộm của Chị Hoàng Thị T được Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự kết luận có giá trị 800.000 đồng.

Trên cơ sở lời khai nhận của lời khai của Lê Vũ Đ, lời khai của bị hại, vật chứng thu được, kết quả định giá tài sản và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được ,Cơ quan điều tra, điều tra viên thấy rằng tại Bản án số:73/2017/HSST ngày 30/11/2017 của TAND thị xã H, tỉnh Nghệ An xử phạt Lê Vũ Đ 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 30 tháng về tội trộm cắp tài sản, Lê Vũ Đ đã chấp hành xong thời hạn thử thách nhưng chưa được xóa án tích, nay tiếp tục trộm cắp là tình tiết định tội để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Lê Vũ Đ. Nên Cơ quan điều tra, điều tra viên đã tiến hành các hoạt động tố tụng theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự như ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với Lê Vũ Đ, lấy lời khai, hỏi cung bị can, lấy lời khai của người bị hại để làm cơ sở xử lý Lê Vũ Đ về tội Trộm cắp tài sản, quy định tại Điều 173 của Bộ luật hình sự. Trên cơ sở điều tra và các chứng cứ, tài liệu do cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án Viện kiểm sát nhân dân thị xã H, tỉnh Nghệ An đã truy tố Lê Vũ Đ về tội Trộm cắp tài sản theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng.

Đây và một vụ án thuộc loại án ít nghiêm trọng, hành vi lén lút, bí mật đột nhập vào nhà bà Lê Thị M trộm cắp của Chị Hoàng Thị T con gái bà Mười 01 chiệc điện thoại di động trị giá 800.000đ do bị cáo Lê Vũ Đ thực hiện là rất nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự liều lĩnh xem thường pháp luật, gây mất trật tự an toàn xã hội, xâm phạm đến quyền sử hữu tài sản của công dân được nhà nước và pháp luật bảo vệ. Bị cáo Lê Vũ Đ là đối tượng có nhân thân xấu đã từng bị xét xử về tội trộm cắp tài sản vào năm 2017 chưa được xóa án tích, nay tiếp tục phạm tội điều này cho thấy ý thức chấp hành pháp luật kém, bị cáo là con người khó giáo dục cải tạo, ngựa quen đường cũ, nên cần xử lý nghiêm cách ly bị cáo ra ngoại xã hội một thời gian để nhà nước giao dục đối với bị cáo, qua đó để bị cáo thấy được sự nghiêm minh của pháp luật, để bị cáo cố gắng cải tạo mình thành người có ích cho xã hội và gia đình, sớm hòa nhập với cộng đồng.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải hành vi phạm tội của mình;

người bị hại đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo là những tình tiết giảm nhẹ để xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình, việc truy tố, xét xử lần này đối với bị cáo chỉ có tình tiết định tội để xử lý hình sự đối với bị cáo.

Lẽ ra xử phạt bị cáo với mức án 9 tháng tù là phù hợp, nhưng xét thấy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 nên cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo, chỉ xử phạt bị cáo 06 tháng tù là đủ nghiêm.

[5] Vật chứng: Quá trình điều tra thu giữ 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu nhãn hiệu Oppo F3 đã qua sử dụng. Cơ quan điều tra xác định chiếc điện thoại này là tài sản hợp pháp của Chị Hoàng Thị T nên cơ quan điều tra đã tiến hành trả lại cho bị hại trong quá trình điều tra là đúng.

[6]Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại Chị Hoàng Thị T không yêu cầu gì đối với bị cáo, nên miễn xét.

[7] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của Điều 135; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2026 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Lê Vũ Đ 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, nhưng được trừ thời gian bắt tạm giữ đối với bị cáo tính từ ngày 12/10/2020 đến ngày15/10/2020.

2. Về án phí: Căn cứ vào Điều 135; Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án.

Buộc:Bị cáo Lê Vũ Đ phải nộp 200.000đ (Bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại có mặt được quyền kháng cáo lên toà án cấp phúc thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 101/2020/HS-ST

Số hiệu:101/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoàng Mai - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về