Bản án về tội trộm cắp tài sản số 100/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 100/2021/HS-PT NGÀY 07/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 07 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 58/2021/TLPT-HS ngày 22 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo Lê Cao T; do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 119/2020/HS-ST ngày 30 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

Bị cáo có kháng cáo:

Lê Cao T, sinh năm 1980, tại Đồng Nai;

Nơi đăng ký HKTT: Ấp 2, xã M, huyện V, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Bằng S (đã chết) và bà Nguyễn Thị L (còn sống), có vợ là chị Phan Thị Châu N, sinh năm 1989; Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Nhân thân:

+ Năm 1999 bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai xử phạt 09 (Chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân”.

+ Ngày 26/10/2000 bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai xử phạt 03 (Ba) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Ngày 18/12/2003 bị Tòa án nhân dân huyện Đạ Huoai, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 05 (Năm) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Ngày 30/12/2008 bị Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận xử phạt 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Ngày 28/4/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Naixử phạt 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 5/2020, Lê Cao T vào tiệm sửa xe ven đường ở khu vực xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai thì gặp một thanh niên tên H (không rõ nhân thân, lai lịch). H giới thiệu làm nghề mua bán bưởi nên hỏi T có quen người trồng bưởi thì giới thiệu cho H mua. Sau đó, T giới thiệu và đưa H vào vườn bưởi của gia đình Tài tại Ấp 2, xã H, huyện V, tỉnh Đồng Nai chơi.

Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 09/8/2020, H liên lạc với T rồi cả hai hẹn nhau uống cà phê, H rủ T đi hái trộm bưởi. H nói địa điểm, T biết đó là vườn bưởi nhà chị Phan Thanh B. Do vườn bưởi nhà T gần vườn chị B nên T từ chối, không tham gia trộm cùng H. H hứa cho T 1.000.000 đồng nếu T cho H gửi số bưởi hái trộm của nhà chị B tại vườn nhà T thì T đồng ý.

Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 10/8/2020, H và một thanh niên không rõ nhân thân, lai lịch đến rẫy của gia đình T, T đồng ý để H để bưởi vào vị trí nào trong vườn bưởi của T cũng được. H cùng người thanh niên điều khiển xe mô tô kiểu dáng Wave (không rõ biển kiểm soát) và xe tay ga (không rõ nhãn hiệu, biển kiểm soát) đi trộm bưởi còn Tài ở lại rẫy đợi. Sau khi Hùng nhiều lần chở bưởi vào vườn T cất giấu thì T hỏi H đã xong chưa, H nói T vào rẫy chị B phụ giúp vận chuyển số bưởi còn lại nên T đi bộ đến vườn nhà chị B. T giúp đưa bưởi lên vai người thanh niên để mang ra đường. Người thanh niên đưa cho T cầm giúp một kiềm cắt cán gỗ có lò xo dài 20cm rồi vác bưởi ra hướng đường. Nghe tiếng chó sủa nhiều, sợ bị phát hiện nên T ngồi trong rẫy đợi, khoảng 10 phút sau T đi bộ ra hướng đường.

Khoảng 04 giờ 00 phút ngày 11/8/2020, anh Phan Gia C đang ngủ để trông vườn bưởi cho chị Phan Thanh B, nghe tiếng chó sủa nên vào vườn để kiểm tra thì phát hiện T đang đi bộ từ hướng vườn bưởi ra đường. Nghi ngờ T trộm cắp tài sản nên anh C giữ người, đồng thời kiểm tra vườn thì phát hiện trái bưởi bị cắt bỏ dưới đất trong vườn nên anh Công báo cho chị B và Công an xã H đến giải quyết.

* Tang vật thu giữ:

- 319 kg bưởi da xanh (tại vườn của chị B và vườn của T).

- 01 kềm cắt cán gỗ có lò xo dài 20cm.

- 01 Điện thoại di động màu đen Nokia 1280.

* Cơ quan cảnh sát điều tra đã xử lý tang vật:

- Trả lại 319 kg bưởi da xanh cho chị Phan Thanh B.

- Trả lại 01 điện thoại di động màu đen Nokia 1280 cho Lê Cao T.

Tại Kết luận định giá tài sản số 168/KL-ĐGTS ngày 26/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Vĩnh Cửu kết luận giá trị của 319 kg bưởi da xanh là 7.018.000 đồng.

Quá trình điều tra cũng như quá trình xét xử, bị cáo không có ý kiến gì về Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Vĩnh Cửu.

Trách nhiệm bồi thường dân sự: Bà Nguyễn Thị L là mẹ của Lê Cao T đã bồi thường cho chị Phan Thanh B số tiền 9.450.000 đồng, chị B không yêu cầu T bồi thường.

Đối tượng tên H và người thanh niên đi cùng có hành vi trộm cắp tài sản Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 119/2020/HS-ST ngày 30 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai đã quyết định:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Cao T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 38, Điều 47; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Xử phạt: Bị cáo Lê Cao T 09 (Chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào cơ sở giam giữ để chấp hành án.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 06/01/2021, bị cáo Lê Cao T có đơn kháng cáo xin hưởng án treo.

+ Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đã đánh giá, phát biểu quan điểm xử lý vụ án:

Với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của bị cáo Lê Cao T tại phiên tòa phúc thẩm, nhận thấy bản án sơ thẩm đã tuyên là đúng người, đúng tội và mức án phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không bổ sung được tình tiết giảm nhẹ mới, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a Khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Cao T, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm. [2] Về nội dung:

Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định: Do có quen biết từ trước và được đối tượng tên H hứa hẹn cho tiền nên khoảng đêm ngày 10/8/2020, rạng sáng ngày 11/8/2020, T đồng ý cho H và một thanh niên (chưa rõ nhân thân, lai lịch) cất giấu đồng thời giúp các đối tượng vận chuyển 319 kg bưởi da xanh hái trộm tại vườn của chị Phan Thanh B. Quá trình điều tra, Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Vĩnh Cửu kết luận giá trị của 319kg bưởi da xanh là 7.108.000 đồng.

Hành vi của bị cáo cùng các đối tượng khác lén lút chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng vì vậy, Toà sơ thẩm tuyên xử bị cáo Lê Cao T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội. Bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị xét xử về hành vi trộm cắp tài sản nhưng không tu dưỡng bản thân lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy, việc xử phạt nghiêm bị cáo là cần thiết, nhằm mục đích răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

Khi lượng hình, cấp sơ thẩm đã xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ, đánh giá đầy đủ chứng cứ và xử phạt bị cáo Lê Cao T 09 (Chín) tháng tù là phù hợp, không nặng như kháng cáo mà bị cáo đã nêu.

Tại cấp phúc thẩm, bị cáo T xin được hưởng án treo nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình. Do đó, kháng cáo của bị cáo không có căn cứ chấp nhận.

[4] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo Lê Cao T không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Cao T và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 119/2020/HS-ST ngày 30 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

2. Căn cứ Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 38, Điều 47; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);.

Xử phạt bị cáo Lê Cao T 09 (Chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

3. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Lê Cao T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

99
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 100/2021/HS-PT

Số hiệu:100/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về