Bản án về tội trộm cắp tài sản số 100/2021/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 100/2021/HS-PT NGÀY 12/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 22/2021/TLPT-HS, ngày 08 tháng 01 năm 2021, đối với bị cáo Bùi Trọng Đ. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 51/2020/HS-ST, ngày 27/11/2020, của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Bùi Trọng Đ, sinh năm 1991, tại tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Thôn 1, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Lao động tự do; tôn giáo: Không; dân tộc: Kinh; trình độ học vấn: 8/12; con ông Bùi Trọng P và bà Dương Thị L; tiền sự: không; Tiền án: 01 tiền án: Ngày 31/8/2010, bị Tòa án nhân dân huyện K xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù nhưng chưa thực hiện nghĩa vụ bồi thường dân sự và chưa đóng án phí.

Nhân thân: Ngày 29/9/2020, bị Tòa án nhân dân huyện E xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/7/2020 đến nay - Có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Anh Dương Văn A, sinh năm 1997; trú tại: Thôn 01, xã B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk - Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 40 phút ngày 23/7/2020, bị cáo Bùi Trọng Đ đang ở nhà thì thấy Dương Văn A để xe mô tô biển số 47N7-1937 ở khu vực bờ ruộng phía trước nhà mình nên Đ đến hỏi mượn xe nhưng A không đồng ý. Khi A để xe mô tô tại bờ ruộng và đi bẫy chim thấy xe không có người trông giữ nên Đ nảy sinh ý định trộm cắp. Đ mở hệ thống dây điện của xe và đấu nối để nổ máy và điều khiển xe đến huyện E tìm nơi tiêu thụ. Khi đến tiệm sửa xe máy của Vũ Văn T, Đ vào bán xe mô tô cho T với giá 700.000 đồng và sử dụng hết.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 21/KL-HĐĐG, ngày 30/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện K, kết luận: 01 xe mô tô biển số 47N7-1937, nhãn hiệu Hope, màu sơn đen xám, trị giá tại thời điểm bị chiếm đoạt là 2.100.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 51/2020/HS-ST, ngày 27/11/2020, của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 55; khoản 1 Điều 56 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Trọng Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Bùi Trọng Đ 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù của Bản án số 52/2020/HS-ST ngày 29/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Ea Kar. Buộc bị cáo Bùi Trọng Đ phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 02 (Hai) năm 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 29/7/2020.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, về án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 03/12/2020, bị cáo Bùi Trọng Đ có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Bùi Trọng Đ giữ nguyên nội dung kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản án hình sự sơ thẩm.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và khẳng định: Bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Bùi Trọng Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Mức hình phạt 01 năm 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo, cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo khi quyết định hình phạt, tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp tình tiết giảm nhẹ nào mới cho nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Bùi Trọng Đ.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì thêm, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, tại phiên toà sơ thẩm và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã đủ cơ sở pháp lý kết luận: Vào ngày 23/7/2020, tại thôn 1, xã E, huyện K, bị cáo Bùi Trọng Đ đã có hành vi lén lút trộm cắp xe mô tô biển số 47N7-1937 của Dương Văn A, có trị giá 2.100.000 đồng. Vì vậy, bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Bùi Trọng Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Bùi Trọng Đ, Hội đồng xét xử nhận thấy: Mức hình phạt 01 năm 06 tháng tù mà bản án sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Bởi lẽ, bị cáo có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Mặt khác, ngày 29/9/2020 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện E xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Vì vậy, cần phải có một mức hình phạt thật nghiêm khắc để có điều kiện cải tạo giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội. Bản án sơ thẩm cũng đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự mà bị cáo được hưởng. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo, cần giữ nguyên mức hình phạt của bản án sơ thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí: Do không chấp nhận kháng cáo nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Trọng Đ - Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 51/2020/HS-ST, ngày 27/11/2020, của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

[2] Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 55; khoản 1 Điều 56 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Bùi Trọng Đ 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù của Bản án số 52/2020/HS-ST, ngày 29/9/2020, của Tòa án nhân dân huyện E. Buộc bị cáo Bùi Trọng Đ phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 02 (Hai) năm 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 29/7/2020.

[3] Về án phí: Bị cáo Bùi Trọng Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 100/2021/HS-PT

Số hiệu:100/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về