TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NB, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 09/2021/HS-ST NGÀY 02/02/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 02 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện NB, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 01/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 01 năm 2021, đối với bị cáo:
Họ và tên: Võ Văn H; sinh năm 1989, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Đăng ký HKTT: Số Z, Khu phố B, phường Tân Phú, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: không biết chữ; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông: Nguyễn Văn H và bà Võ Thị Á; Vợ, con: không;
Tiền án: Bản án số 223/2010/HSPT ngày 16/4/2010, Tòa án nhân dân Tối cao tại TPHCM xử phạt Võ Văn H 10 năm tù về tội “Giết người”, chưa được xóa án tích.
Tiền sự: không Nhân thân: không;
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 25/10/2020 đến nay (có mặt).
Nguyên đơn dân sự: Công ty cổ phần Q Địa chỉ: Số N, K, Khu phố 4, phường Tân Phong, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1990 Địa chỉ: Nhà không số, , Ấp C, xã N, huyện NB, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)
2. Ông Nguyễn Văn Ph, sinh năm 1984 Địa chỉ: Ấp C, xã P, Huyện NB, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)
3. Bà Huỳnh Thị L, sinh năm 1981 Địa chỉ: Ấp B, xã P, Huyện NB, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)
4. Bà Lựu Thị Hồng H, sinh năm 1981 Địa chỉ: Ấp B, xã P, huyện NB, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)
5. Ông Phan Hoàng Ph, sinh năm 1979 Địa chỉ: Ấp C, xã N, huyện NB, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)
6. Ông Lê Ngọc Thh, sinh năm 1991 Địa chỉ: Ấp B, xã P, huyện NB, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)
7. Ông Bùi Xuân Đ, sinh năm 1977 Địa chỉ: Khu dân cư Cotec, Ấp B, xã P, huyện NB, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)
8. Ông Đoàn Huy B, sinh năm 1980 Địa chỉ: Ấp C, xã N, huyện NB, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)
9. Ông Nguyễn Thanh S, sinh năm 1985 Địa chỉ: Ấp B, xã N, huyện NB, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)
10. Bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1975 Địa chỉ: Ấp B, xã N, huyện NB, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)
11. Bà Lê Thị Kim Ch, sinh năm 1973 Địa chỉ: Ấp C, xã N, huyện NB, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)
12. Bà Lâm Hoàng A, sinh năm 1983 Địa chỉ: Khu dân cư P, Ấp 3, xã P, huyện NB, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)
13. Ông Trần Văn Th, sinh năm 1959 Địa chỉ: Ấp 3, xã P, Huyện NB, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Thị Diễm Tr và Võ Văn H thuê nhà trọ ở cùng nhau. Để có tiền, cả hai rủ nhau đi trộm cắp đồng hồ nước bán lấy tiền tiêu xài. Ngày 01/12/2019, khoảng 11 giờ 00 phút, Tr chuẩn bị cờ lê, túi, H dùng xe máy hiệu Dream biển số 51X3-X chở Tr từ phòng trọ về hướng huyện NB, Thành phố Hồ Chí Minh tìm tài sản sơ hở để trộm cắp.
Khi đến nhà số 26 đường số 29 KDC P thì phát hiện 01 đồng hồ nước đặt bên ngoài cổng rào, H dừng xe để Tr xuống tháo trộm. Do đồng hồ đặt trong hộp bảo vệ Tr mở không được nên H nhặt viên gạch gần đó đập vỡ nắp hộp, Tr dùng cờ lê mang theo mở ốc vít tháo trộm đồng hồ nước. Cả hai lên xe, tiếp tục đi tìm đồng hồ nước để trộm, tại địa chỉ trước nhà A6/5, KDC Cotec, Ấp B, xã P; 17/1A Nguyễn Bình, Ấp B, xã P; 400C Nguyễn Bình, Ấp B, xã N; 9/6 Nguyễn Bình, Ấp C, xã N; 6/10 Nguyễn Bình, Ấp C, xã N, Tr và H trộm được 05 cái đồng hồ nước. Tại địa chỉ 2/2 Nguyễn Bình, Ấp C, xã N, Tr và H trộm được 02 cái đồng hồ nước. Sau khi trộm cắp được 08 cái đồng hồ nước, Tr và H mang đến vựa thu mua phế liệu thuộc Ấp B, xã N, huyện NB bán cho bà Nguyễn Thị B được 480.000đ Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 03/12/2010, Tr và H tiếp tục rủ nhau đi trộm cắp tài sản, tại địa chỉ 2266/5A Huỳnh Tấn Phát, ấp 3, xã P, trộm 02 cái đồng hồ nước; tại 21/1 Nguyễn Bình, xã P; 527/56 Ấp B, xã P; nhà không số hẻm 1419 Ấp B, xã P; 416 Nguyễn Bình, Ấp B, xã N, Tr và H trộm được 04 cái đồng hồ nước. Khi Tr và H mang theo tài sản trộm được đi bán thì bị Công an xã N kiểm tra bắt giữ;
Ngoài ra Nguyễn Thị Diễm Tr còn một mình thực hiện hành vi trộm cắp tài sản vào ngày 02/12/2019, H không tham gia và không biết Tr thực hiện hành vi trộm cắp này.
Tại Kết luận định giá tài sản ngày 05 tháng 12 năm 2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện NB, kết luận:
“17 cái đồng hồ nước đã qua sử dụng được định giá 23.918.099 đồng, giá trị thiệt hại mỗi đồng hồ nước là 1.406.947đ”.
Ngày 08/12/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện NB đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn ra lệnh bắt tạm giam đối với Nguyễn Thị Diễm Trvề tội “Trộm cắp tài sản”.
Ngày 05/02/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện NB đã khởi tố bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn ra lệnh bắt tạm giam đối với Võ Văn H về tội “Trộm cắp tài sản”. Do H bỏ trốn khỏi nơi cư trú, nên ngày 11/3/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra ra Quyết định truy nã đối với Võ Văn H. Ngày 21/10/2020, Võ Văn H bị bắt theo Quyết định truy nã của Công an huyện NB.
Tại Bản án số 25/2020/HS-ST ngày 25/5/2020, Tòa án nhân dân Huyện NB xét xử Nguyễn Thị Diễm Trvề tội “Trộm cắp tài sản”.
Tại bản Cáo trạng số 05/CT-VKSNB ngày 05/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Huyện NB, Thành phố Hồ Chí Minh, truy tố bị cáo Võ Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát thực hành quyền công tố giữ nguyên Cáo trạng truy tố. Tuy nhiên do có sự nhầm lẫn về số học nên xin đính chính lại về giá trị tài sản mà Võ Văn H trộm cắp là 16.883.364đ, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điềm h, g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Võ Văn H từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Truy thu số tiền thu lợi bất chính của Võ Văn H 240.000đ.
Về dân sự, về xử lý vật chứng, về quyền kháng cáo của nguyên đơn dân sự, người liên quan đã được quyết định tại bản án số 25/2020/HS-ST ngày 25/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện NB khi xét xử bị cáo Nguyễn Thị Diễm Tr .
Bị cáo nhận tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mà không có ý kiến tranh luận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Huyện NB, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Huyện NB, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố Tụng hình sự. Bị cáo, người bị hại, người liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, lời khai người bị hại, người liên quan, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa. Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định: Trong ngày 01 và ngày 03 tháng 12 năm 2019, Nguyễn Thị Diễm Trcùng Võ Văn H đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện NB, Thành phố Hồ Chí Minh. Tài sản mà H cùng với Tr trộm cắp 12 là đồng hồ nước, mỗi đồng hồ được định giá là 1.406.947đ. Như vậy. Tổng trị giá tài sản mà H và Tr cùng thực hiện trong 02 vụ trộm cắp là 16.883.364đ (mười sáu triệu, tám trăm tám mươi ba nghìn, ba trăm sáu mươi tư đồng). Hành vi của bị cáo Võ Văn H và Nguyễn Thị Diễm Tr đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Do Võ Văn H bỏ trốn nên ngày 22/5/2020, Tòa án nhân dân Huyện NB, Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử đối với bị cáo Nguyễn Thị Diễm Tr về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 25/2020/HS-ST.
[3] Xét tính chất vụ án và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tội phạm thuộc loại ít nghiêm trọng nhưng hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự an toàn xã hội nên cần xử phạt nghiêm. Bị cáo thực hiện hai vụ trộm cắp, thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần. Bị cáo có một tiền án, chưa được xóa án tích, phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm. Sau khi phạm tội, bị cáo đã bỏ trốn gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Vì vậy, việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên cũng cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì có thái độ khai báo thành khẩn.
[4] Bị cáo chưa giao nộp số tiền thu lợi bất chính 240.000đ. Đây là số tiền bị cáo hưởng lợi từ việc bán tài sản trộm cắp. Vì vậy cần truy thu của bị cáo để sung vào ngân sách nhà nước.
[5] Về trách nhiệm dân sự. Về xử lý vật chứng đã được giải quyết tại Bản án số 25/2019/HS-ST ngày ngày 22/5/2019 của Tòa án nhân dân Huyện NB Thành phố Hồ Chí Minh.
[6] Về quyền kháng cáo bản án của Nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được thực hiện theo Bản án số 25/2019/HS-ST ngày 22/5/2019 của Tòa án nhân dân Huyện NB, Thành phố Hồ Chí Minh.
[7] Bị cáo Võ Văn H phải chịu án phí hình sự và dân sự theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: bị cáo Võ Văn H 02 (hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/10/2020.
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố Tụng hình sự; điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự Truy thu số tiền 240.000đ (hai trăm bốn mươi nghìn đồng) của bị cáo Võ Văn H để sung vào ngân sách nhà nước.
Về án phí: Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Võ Văn H phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 09/2021/HS-ST
Số hiệu: | 09/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nhà Bè - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/02/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về