Bản án về tội trộm cắp tài sản số 08/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC QUANG, TỈNH HÀ GIANG
BẢN ÁN 08/2024/HS-ST NGÀY 01/02/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 01 tháng 02 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 04/2024/TLST-HS ngày 12 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2024/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:

La Văn T, sinh ngày 10 tháng 12 năm 1972 tại huyện B, tỉnh Hà Giang. Nơi cư trú: Đội 4, thôn C, xã Đ, huyện B, tỉnh Hà Giang; số CCCD 0020720041xx , cấp ngày 29/9/2022 tại Cục C về TTXH; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 2/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông La Văn Đ (đã chết) và bà Nguyễn Thị N (đã chết); vợ La Thị T1, sinh năm 1968; có 02 con, con lớn nhất sinh năm 1991, con nhỏ nhất sinh năm 1993; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. (có mặt)

- B hại: Anh Vũ Văn S, sinh năm 1990; nơi cư trú: Đ, thôn C, xã Đ, huyện B, tỉnh Hà Giang (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Nguyễn Văn M, sinh năm 1976; nơi cư trú: Đ, Thôn C, xã Đ, huyện B, tỉnh Hà Giang (vắng mặt).

+ Anh Nguyễn Mạnh H, sinh năm 1993; nơi cư trú: Đ, Thôn C, xà Đ, huyện B, tỉnh Hà Giang (vắng mặt).

+ Anh Nguyễn Ngọc Đ1, sinh năm 1989; nơi cư trú: Đ, Thôn C, xã Đ, huyện B, tỉnh Hà Giang (vắng mặt).

- Người làm chứng: Chị La Thị T1, sinh năm 1968 (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 05/9/2023, La Văn T một mình đi bộ từ nhà ra chợ xã Đ chơi. Khi đi đến khu vực ngã ba đường đi xã Đ, huyện B, tỉnh Hà Giang, T đứng quan sát cửa hàng tạp hoá của Vũ Văn S thấy không có ai trông coi nên T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. T đi bộ theo đường cửa chính vào nhà S, đến khu vực gian nhà giữa, quan sát thấy 01 (một) chiếc hòm tôn không khóa đang đặt trên kệ hàng, T tiến đến, dùng tay phải mở nắp hòm lên, thấy trong hòm có 01 (một) cọc tiền gồm nhiều tờ tiền Việt Nam đồng có nhiều mệnh giá 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng), 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng), 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) và 50.000đ (Năm mươi nghìn đồng) được buộc bằng dây nịt màu vàng, ngoài ra trong hòm còn có nhiều tiền lẻ có nhiều mệnh giá khác nhau. Thấy vậy, T dùng tay phải lấy cọc tiền buộc bằng dây nịt màu vàng trong hòm ra, cất vào túi quần bên phải phía trước rồi ra ngoài theo lối cửa chính và đi về nhà. Về nhà, T không kiểm đếm số tiền vừa trộm cắp được mà lấy ra một tập tiền có mệnh giá 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) cho vào trong túi một chiếc quần rồi cất giấu chiếc quần đó vào trong hòm tôn không khoá của gia đình, còn 11.500.000đ (Mười một triệu năm trăm nghìn đồng) gồm nhiều tờ tiền có mệnh giá 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng), 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) và 50.000đ (năm mươi nghìn đồng) T mang ra chợ xã Đ, huyện B mục đích để chi tiêu cá nhân. Trong lúc T cất giấu số tiền trên vào hòm tôn, La Thị T1 (là vợ của T) đang nằm trên giường nhìn thấy, khi T ra khỏi nhà, T1 dậy mở hòm tôn, lấy số tiền mà T cất giấu trong túi quần ra đếm được tổng số tiền là 23.000.000đ (Hai mươi ba triệu đồng), đếm xong, T1 cất số tiền này vào trong túi áo ngực của T1. Đến chiều cùng ngày, T đi chơi về, T1 hỏi T lấy số tiền này ở đâu, T nói dối tối hôm qua T đi đánh bạc thắng được , nghe vậy, T1 không nói gì rồi cất số tiền 23.000.000đ (Hai mươi ba triệu đồng) vào trong túi áo ngực của mình.

Đến trưa ngày 06/9/2023, T một mình đi ra cửa hàng buôn bán đồ gia dụng của Nguyễn Văn M, dùng tiền trong số tiền 11.500.000đ (mười một triệu năm trăm nghìn đồng) lấy ra từ tiền đã trộm cắp mua 01 (một) chiếc máy phát cỏ màu trắng, đỏ, đen không rõ nhãn hiệu, trên thân máy có số A117407, máy đã qua sử dụng với số tiền 2.000.000đ (hai triệu đồng) và 01 (một) mũ bảo hiểm để phát cỏ với giá 120.000đ (Một trăm hai mươi nghìn đồng) rồi đem về nhà cất, số tiền còn lại, T đã chi tiêu cá nhân hết. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, T bảo T1 đưa cho T 2.000.000đ (Hai triệu đồng) rồi đến cửa hàng bán điện thoại của Nguyễn Mạnh H mua 01 (một) chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu VIVO, máy đã qua sử dụng với số tiền 1.200.000đ (một triệu hai trăm nghìn đồng), số tiền còn lại 800.000đ (Tám trăm nghìn đồng), T sử dụng chi tiêu cá nhân hết. Đến trưa ngày 07/9/2023, T tiếp tục bảo T1 đưa cho T 4.000.000đ (bốn triệu đồng) rồi đến nhà của Nguyễn Ngọc Đ1 mua 01 (một) chiếc xe mô tô BKS 23D -115.XX , nhãn hiệu ESPERO, cũ đã qua sử dụng với số tiền 3.450.000 đ (ba triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng), mua xong, T về nhà đưa lại cho T1 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng), còn lại 50.000đ (Năm mươi nghìn đồng), T sử dụng chi tiêu cá nhân. Đến khoảng 17 giờ ngày 07/9/2023, sau khi xem Camera của gia đình, vợ chồng Vũ Văn S đến nhà T hỏi thì T thừa nhận vào sáng ngày 05/9/2023, T đã thực hiện hành vi trộm cắp số tiền 34.500.000đ (ba mươi tư triệu năm trăm nghìn đồng) của gia đình S. Lúc này, T1 mới biết số tiền T1 đang cất giữ là tiền do T trộm cắp mà có nên đã lấy số tiền còn lại là 17.500.000đ (mười bảy triệu năm trăm nghìn đng) trả lại cho S, T hẹn Sang hai ngày sau sẽ trả đủ số tiền còn lại đã trộm cắp. Biết sự việc bị phát hiện, T mang xe mô tô BKS 23D1 - 115.xx trả cho Nguyễn Ngọc Đ1 để lấy lại tiền, Đ1 đồng ý nhận xe nhưng chỉ trả lại cho T 3.000.000đ (ba triệu đồng), còn số tiền 450.000 đ (Bốn trăm năm mươi nghìn đồng) trừ hao mòn xe. Sau đó, T đi sang xã Đ, huyện B chơi, trên đường đi, T đã làm rơi mất số tiền 3.000.000đ (ba triệu đng) trên. Đến ngày 09/9/2023, do không thấy T trả lại số tiền 17.000.000đ (Mười bảy triệu đồng) mà T đã trộm cắp như đúng hẹn nên S đã đến Công an xà Đ, huyện B để trình báo sự việc.

Sau khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, Công an xã Đ, huyện B đã tiến hành kiểm tra, xác minh, thu giữ vật chứng, đồ vật liên quan và chuyển hồ sơ đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B, tỉnh Hà Giang để giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 20/10/2023, Phòng K Công an tỉnh H ban hành kết luận giám định số 346/KL-KTHS, kết luận: 35 (ba mươi lăm) tờ tiền gửi giám định đều là tiền thật.

Với hành vi trên, tại Cáo trạng số 06/CT-VKSBQ ngày 11/01/2024 Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang truy tố La Văn T về tội "Trộm cắp tài sản" quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang giữ nguyên quyết định truy tố La Văn T về tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38, Điều 50; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 01 (một) năm tù đến 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và án phí đề nghị HĐXX giải quyết theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố, nhất trí với Bản luận tội của Kiểm sát viên và lời nói sau cùng của bị cáo xin HĐXX giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên của huyện B, tỉnh Hà Giang trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. Giai đoạn điều tra cũng như tại phiên toà những người tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các cơ quan, người tiến hành tố tụng. Do đó các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt, những người làm chứng vắng mặt nhưng đã có lời khai đầy đủ, rõ ràng trong quá trình điều tra. Căn cứ vào Điều 292, Điều 293 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

[3] Về căn cứ định tội, định khung hình phạt: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang, bị cáo khai nhận, vào khoảng 9 giờ ngày 05/9/2023 bị cáo đã lén lút chiếm đoạt số tiền 34.500.000đ (Ba mươi tư triệu năm trăm nghìn đồng) để trong hòm tôn không khoá được đặt trên kệ hàng trong cửa hàng tạp hoá của anh Vũ Văn S. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai nhận tội tại cơ quan điều tra (Bút lục 78-83; 85-87; 89-90; 92-94), phù hợp với lời khai bị hại (Bút lục 95- 103), với người làm chứng (Bút lục 104-109), người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (Bút lục 110-127), Kết luận giám định (Bút lục 71), vật chứng của vụ án (Bút lục 58- 60), Biên bản nhận dạng (Bút lục 75-76), Bản ảnh nhận dạng (Bút lục 77), Biên bản xác định hiện trường (Bút lục 49-50), Sơ đồ hiện trường (bút lục 51), Bản ảnh hiện trường (Bút lục 52-57) cùng những chứng cứ, tài liệu đã được thu thập, phản ánh trong hồ sơ và được thẩm tra xác minh tại phiên toà. Như vậy có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận bị cáo La Văn T đã phạm Tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Như vậy Viện kiểm sát huyện B, tỉnh Hà Giang đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: “1. Người nào trộm cp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đằng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

[5] Hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác là khách thể được pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ. Đồng thời còn làm mất trật tự trị an tại địa phương, gây lo lắng cho quần chúng nhân dân trong việc quản lý tài sản. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng cố ý phạm tội.

[6] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo: Bị cáo không có tình tiết năng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[7] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền đã chiếm đoạt là 17.000.000đ (Mười bảy triệu) đồng. Tại phiên tòa, bị cáo đồng ý bồi thường theo như yêu cầu của người bị hại. Xét thấy yêu cầu bồi thường của người bị hại là chính đáng và sự tự nguyện của bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.

[9] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) hòm tôn và số tiền 17.500.000 đồng (mười bảy triệu năm trăm nghìn đồng). Qua quá trình điều tra, xác định đồ vật và tài sản trên thuộc sở hữu của bị hại Vũ Văn S và bị hại đã có đơn xin lại tài sản. Ngày 07/11/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 36, trả lại các đồ vật, tài sản trên cho chủ sở hữu. Xét thấy việc xử lý vật chứng của Cơ quan CSĐT Công an huyện B là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

- Đối với 01 (một) chiếc máy phát cỏ màu trắng, đỏ, đen không rõ nhãn hiệu, trên thân máy có số A117407, máy đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động loại màn hình cảm ứng, nhãn hiệu VIVO, mặt trước màu đen, mặt sau màu xanh, điện thoại cũ đâ qua sử dụng; 01 (một) chiếc mũ bảo hiểm màu vàng cam, có kính chắn phía trước, mũ đã qua sử dụng do Cơ quan CSĐT Công an huyện B thu giữ của bị cáo. Đây là số tài sản do bị cáo phạm tội mà có, tuy nhiên bị cáo chưa bồi thường cho bị hại và bị cáo còn phải thi hành khoản án phí nên cần giữ lại số tài sản trên để đảm bảo thi hành án.

[10] Đối với Nguyễn Văn M, Nguyễn Văn H1, Nguyễn Ngọc Đ1 là những người bán tài sản cho bị cáo nhưng khi bán họ đều không biết số tiền bị cáo La Văn T thanh toán là tiền do phạm tội mà có nên cơ quan điều tra không đề cập xử lý là có cơ sở để HĐXX chấp nhận. Đối với La Thị Thanh n thấy La Văn T cất giấu tiền nhưng không biết là tiền do phạm tội mà có nên cơ quan điều tra không đề cập xử lý là có cơ sở để HĐXX chấp nhận.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50, Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 357, Điều 468, Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 589 của Bộ luật dân sự; Điều 30, khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo La Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo La Văn T01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về trách nhiệm dân sự:

Buộc bị cáo La Văn T phải bồi thường cho anh Vũ Văn S, số tiền bồi thường là 17.000.000đ (Mười bảy triệu) đồng, theo phương thức thanh toán làm một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Stiền nói trên, kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu s tiền lãi của s tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác..

4. Xử lý vật chứng: Giữ lại những tài sản sau để đảm bảo thi hành án: 01 (một) chiếc máy phát cỏ màu trắng, đó, đen không rõ nhãn hiệu, trên thân máy có số A117407, máy đà qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động loại màn hình cảm ứng, nhãn hiệu VIVO, mặt trước màu đen, mặt sau màu xanh, điện thoại cũ đã qua sử dụng; 01 (một) chiếc mũ bảo hiểm màu vàng cam, có kính chắn phía trước, mũ đã qua sử dụng.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Công an huyện B và Chi cục thi hành án dân sự huyện Bắc Quang ngày 17/01/2024).

5. Về án phí: Bị cáo La Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) và án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 850.000đ (T2 trăm năm mươi nghìn đồng).

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền u cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 08/2024/HS-ST

Số hiệu:08/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Quang - Hà Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về