TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM KHÊ, TỈNH PHÚ THỌ
BẢN ÁN 08/2023/HS-ST NGÀY 28/12/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 28 tháng 12 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm trực tuyến. Đ cầu trung tâm: Tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ. Đ cầu thành phần: Tại Trại tạm giam Công an tỉnh Phú Thọ.
Đối với vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 08/2023/TLST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2023/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo: Nguyễn Văn L, sinh năm 1990, tại huyện C, tỉnh Phú Thọ. Nơi cư trú: Khu A, xã V, huyện C, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá lớp 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1963; con bà Phùng Thị C, sinh năm 1966; bị cáo có vợ là Hà Thị Đ, sinh năm 1994 và 02 người con; con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2021.
Tiền án: Tại Bản án số 215/2021/HSST ngày 29/12/2021, Nguyễn Văn L bị Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (chấp hành xong hình phạt, thi hành xong bản án ngày 19/01/2023).
Tiền sự: Không. Nhân thân:
+ Tại Bản án số 43/2008/HSST ngày 11/03/2008, Nguyễn Văn L bị Tòa án nhân dân huyện Đông A, thành phố Hà Nội xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo về tội Trộm cắp tài sản (chấp hành xong bản án ngày 11/03/2009).
+ Tại Bản án số 59/2009/HSST ngày 08/12/2009, Nguyễn Văn L bị Tòa án nhân dân huyện Cẩm Khê xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (chấp hành xong hình phạt ngày 01/03/2010, chấp hành xong bản án ngày 09/08/2012).
+ Tại Bản án số 18/2011/HSST ngày 26/05/2011, Nguyễn Văn L bị Tòa án nhân dân huyện Cẩm Khê xử phạt 08 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (chấp hành xong bản án ngày 09/08/2012).
+ Tại Bản án số 18/2012/HSST ngày 19/01/2012 Nguyễn Văn L bị Tòa án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (chấp hành xong bản án ngày 02/10/2013).
Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 04/09/2023, áp dụng biện pháp tạm giam ngày ngày 09/09/2023. Hiện nay bị cáo tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Phú Thọ (có mặt).
2. Người bị hại:
- Anh Trần Ngọc Q, sinh năm 1978 Địa chỉ: Thôn Hải Yến, xã Hải Triều, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên (vắng mặt).
- Anh Nguyễn Hoàng A, sinh năm 1978 Địa chỉ: P408/C7, tập thể Nghĩa Tân, Phường Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội (vắng mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Anh Phan Tiến S, sinh năm 1995 Địa chỉ: Số nhà 107A, đường H, thị trấn C, huyện C, tỉnh Phú Thọ (vắng mặt).
- Chị Hà Thị Đ, sinh năm 1994 Địa chỉ: Khu A, xã V, huyện C, tỉnh Phú Thọ (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Từ ngày 20/8/2023, Nguyễn Văn L, sinh năm 1990, trú tại: khu A, xã V, huyện Cẩm Khê tham gia làm thạch cao cho Công ty TNHH Việt Nam S tại công trường Công ty ở khu Công nghiệp Cẩm Khê thuộc khu S, thị trấn C, huyện Cẩm Khê (công nhân thời vụ, lương trả theo ngày công). Khoảng 06 giờ ngày 30/8/2023 khi L đang làm việc trên giàn giáo bên ngoài tầng 2 tòa nhà bếp ăn và ký túc đang thi công của Công ty thì phát hiện cửa sổ của phòng làm việc ở tầng 2 tại vị trí gần giàn giáo L đang làm không khóa (loại cửa có kính trong và trượt sang hai bên). L dùng tay đẩy mở cửa sổ thì phát hiện đây là phòng làm việc của ban chỉ huy công trường, lúc này chưa có ai đến làm việc và đang có nhiều máy tính xách tay để trên bàn làm việc trong phòng. Đồng thời cạnh chỗ L làm lúc này cũng đang không có ai nên L nảy sinh ý định vào phòng ban chỉ huy công trường để trộm cắp tài sản. L trèo qua cửa sổ vào trong phòng và đi lại bàn làm việc gần cửa sổ nhất lấy trên bàn 01 chiếc máy tính xách tay màu đen nhãn hiệu Dell DESKTOP - NSODG3N của A Trần Ngọc Q, sinh năm 1978 ở xã H, huyện T, tỉnh Hưng Yên là kỹ sư của Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng DELCO hiện đang làm việc tại ban chỉ huy công trường của công ty S, rồi đúc vào bên trong áo bảo hộ lao động đang mặc (L chỉ lấy nguyên máy tính, không lấy sạc và chuột máy tính). Sau đó trèo qua cửa sổ ra ngoài và đóng lại cửa sổ như cũ. L mang máy tính trên ra ngoài cổng công ty và cất giấu ở bãi rác bên lề đường gần đó rồi quay trở lại làm việc bình thường. Đến khoảng 12 giờ trưa ngày 01/09/2023 thì L quay lại bãi rác trên lấy chiếc máy tính đã trộm cắp để đem đi bán. L mang theo máy tính đi dọc đường Hoa Khê, thị trấn Cẩm Khê để tìm quán mua bán máy tính. Khi đến cửa hàng “A Store” của A Phan Tiến S, SN 1995 ở số nhà 107A, đường Hoa Khê, thị trấn Cẩm Khê, huyện Cẩm Khê thì L đi vào quán. Tại đây, L gặp A S và hỏi A S có mua laptop cũ không. A S bảo có mua nên L đưa máy tính cho A xem. A có hỏi: “Máy tính A đang dùng hay của ai?” thì L nói đây là máy tính cũ của L do cần tiền nên mang bán (L không nói với A S đây là máy tính do L trộm cắp mà có). A S có bảo L mở máy lên kiểm tra thì L mở máy tính và đưa cho A S. A S kiểm tra qua và trả giá 2.000.000đ nhưng L nói muốn bán với giá 2.200.000đ nên A S đồng ý và chuyển khoản số tiền trên vào tài khoản ngân hàng MB số 9666688X6888 của L. Số tiền bán máy tính L đã rút ra và một mình tiêu sài cá nhân hết, trong tài khoản hiện không còn tiền.
Đến khoảng 12 giờ ngày 04/9/2023, khi Nguyễn Văn L đang ăn cơm ở quán gần khu Công nghiệp Cẩm Khê thì quan sát thấy có mấy người là kỹ thuật viên của Công ty DELCO đang ngồi uống nước ở quán nước đối diện. Nghĩ rằng trong phòng làm việc của họ hiện không có ai, lần trước L đột nhập vào trong phòng có nhiều máy tính nên L lại nảy sinh ý định tiếp tục trộm cắp tài sản tại phòng làm việc trên.
L đi ra khỏi quán nước đi về tòa nhà ăn – ký túc công ty, sau đó đi đến phòng làm việc của ban chỉ huy công trường. Lúc này do cửa chính của phòng đã khóa nên L trèo ra giàn giáo phía ngoài và đi lại chỗ cửa sổ của phòng thì thấy cửa sổ không khóa. L đẩy cửa sổ đi vào bên trong phòng làm việc, thì thấy trong phòng không có ai và trên bàn làm việc trong phòng đang có 01 chiếc máy tính xách tay màu trắng bạc mặt trước có ghi chữ Dell, tên máy tính DESKTOP – 23 GHQP1 của A Nguyễn Hoàng A, sinh năm 1978 ở phường N, quận C, thành phố Hà Nội là kỹ sư của Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng DELCO hiện đang làm việc tại ban chỉ huy công trường của công ty S và 01 chiếc máy tính xách tay màu trắng bạc mặt trước có ghi chữ Dell, tên máy tính DESKTOP - 5IO4DIG của A Trần Ngọc Q (đây là chiếc máy tính A Q mới mua để làm việc). L đi lại lấy 02 chiếc máy tính trên kẹp vào mạn sườn bên trái của L rồi trèo qua cửa sổ đi ra ngoài, sau đó đóng cửa sổ lại như cũ (L chỉ lấy máy tính, không lấy sạc và chuột). Sau khi trộm cắp được 02 chiếc máy tính trên, L giấu 01 chiếc máy tính trên trần nhà của phòng đang làm dở chưa có người làm việc ở gần đối diện phòng làm việc của ban chỉ huy công trường, chiếc còn lại L giấu tại bãi chuối gần Công ty YIDA thuộc khu Đ, thị trấn C, huyện C. Về phía A Hoàng A và A Q sau khi phát hiện mất trộm máy tính đã báo cáo Công an thị trấn Cẩm Khê và Công an huyện Cẩm Khê giải quyết.
Sau khi nhận được tin báo, Cơ quan CSĐT Công an huyện Cẩm Khê đã tiến hành xác minh theo quy định. Cùng ngày, Cơ quan điều tra đã thu giữ của L 02 chiếc máy tính xách tay mà L trộm cắp ngày 04/09/2023. Cũng trong ngày 04/09/2023, A Phan Tiến S đã tự nguyện giao nộp chiếc máy tính xách tay mà A S đã mua của L vào ngày 01/09/2023.
Ngày 08/09/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện Cẩm Khê đã ra yêu cầu định giá tài sản đối với 03 chiếc máy tính xách tay mà L trộm cắp nêu trên. Tại Kết luận định giá tài sản số 45 ngày 08/9/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Cẩm Khê kết luận:
- Chiếc máy tính xách tay (laptop) nhãn hiệu DELL, thông tin DESKTOP- 23GHQP1, Core i7, Ram 16GB, màu trắng bạc mua từ năm 2019 có trị giá 10.800.000đồng.
- Chiếc máy tính xách tay (laptop) nhãn hiệu DELL, thông tin DESKTOP- 5IO4DIG, Core i7, Ram 32GB, màu trắng bạc mua ngày 30/08/2023 có trị giá 17.400.000đồng.
- Chiếc máy tính xách tay (laptop) nhãn hiệu DELL, thông tin DESKTOP- NSODG3N, Core i5, Ram 4GB, màu đen mua từ năm 2018 có trị giá 2.500.000đ.
Tổng giá trị của các tài sản trên là 30.700.000đồng.
Tại cơ quan điều tra Nguyễn Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã trình bày ở trên. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người liên quan về thời gian, địa Đ phạm tội, đặc Đ tài sản trộm cắp, vật chứng thu giữ và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Cáo trạng số 67/CT-VKSCK ngày 06/11/2023, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ truy tố bị cáo về tội Trộm cắp tài sản, quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo L và đề nghị Hội đồng xét xử.
Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s, khoản 1; khoản 2 Điều 51, Đ g, h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn L.
Đề nghị xử phạt bị cáo từ 24 tháng tù đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, ngày 04/9/2023.
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Văn L.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự; áp dụng a, b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự.
Ngày 14/9/2023, cơ quan C sát điều tra Công an huyện Cẩm Khê đã trả lại cho người bị hại anh Trần Ngọc Q và anh Nguyễn Hoàng A là chủ sở hữu hợp pháp 03 chiếc máy tính xách tay bị L trộm cắp và ngày 23/10/2023 Cơ quan C sát điều tra Công an huyện Cẩm Khê trả lại cho chị Đ chiếc xe mô tô; theo biên bản trả lại tài sản ngày 23/10/2023 của cơ quan C sát điều tra Công an huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ là có căn cứ cần xác nhận.
Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584, 585, 586, 588 và Điều 589 của Bộ luật Dân sự.
Buộc bị cáo Nguyễn Văn L phải trả cho anh Phan Tiến S số tiền 2.200.000đồng mà anh S trả tiền mua máy tính của bị cáo L.
Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn L là đối tượng thuộc hộ cận nghèo tại địa phương xã Văn Khúc nên miễn án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự trong vụ án hình sự cho bị cáo.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo trình bày rất ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và mong muốn Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tra tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:
Các quyết định tố tụng của Cơ quan C sát điều tra Công an huyện Cẩm Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Khê, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; đại diện người bị hại và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại không có ý kiến gì hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng pháp luật.
[2]. Về những chứng cứ xác định có tội được xác định như sau:
Vào khoảng hơn 06 giờ ngày 30/08/2023, tại phòng làm việc của ban chỉ huy công trường của Công ty TNHH Việt Nam S ở khu S, thị trấn C, huyện C, tỉnh Phú Thọ, Nguyễn Văn L đã có hành vi trộm cắp của A Trần Ngọc Q 01 chiếc máy tính xách tay (laptop) nhãn hiệu DELL, thông tin DESKTOP-NSODG3N, Core i5, Ram 4GB, màu đen mua từ năm 2018, trị giá 2.500.000đồng.
Vào khoảng hơn 12 giờ ngày 04/09/2023 tại phòng làm việc của ban chỉ huy công trường của Công ty TNHH Việt Nam S ở khu S, thị trấn C, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ, Nguyễn Văn L tiếp tục có hành vi trộm cắp của A Trần Ngọc Q 01 ciếc máy tính xách tay (laptop) nhãn hiệu DELL, thông tin DESKTOP- 5IO4DIG, Core i7, Ram 32GB, màu trắng bạc mua ngày 30/08/2023, trị giá 17.400.000đồng và trộm cắp của A Nguyễn Hoàng A 01 chiếc máy tính xách tay (laptop) nhãn hiệu DELL, thông tin DESKTOP-23GHQP1, Core i7, Ram 16GB, màu trắng bạc mua từ năm 2019, trị giá 10.800.000đồng. Tổng trị giá tài sản L trộm cắp 03 chiếc máy tính xách tay là 30.700.000đồng (Ba mươi triệu bảy trăm nghìn đồng), đủ định lượng để truy tố bị cáo về tội Trộm cắp tài sản, quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Trong vụ án này, anh Phan Tiến S không biết chiếc máy tính mà L bán cho A là do L trộm cắp mà có; chị Hà Thị Đ không biết việc L trộm cắp tài sản, sử dụng xe máy để đi cất giấu và tiêu thụ tài sản trộm cắp, nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Cẩm Khê không đề cập xử lý đối với anh S và chị Đ là đúng quy định của pháp luật.
Do vậy, bản cáo trạng số 67/CT-VKSCK-HS ngày 06/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Khê truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.
Tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự như sau: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000đồng đến dưới 50.000.000đồng hoặc dưới 2.000.000đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
[3]. Về các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo:
- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo L đã thành khẩn khai báo giúp cho việc điều tra được thuận lợi và bị cáo tỏ ra ăn năn hối cải. Nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của bộ luật hình sự. Người bị hại là anh Nguyễn Ngọc Q và anh Nguyễn Hoàng A đều có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo L, cũng được coi là tình tiết giảm nhẹ khác quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo.
- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại Bản án số 215/2021/HSST ngày 29/12/2021, Nguyễn Văn L bị Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (bị cáo L chấp hành xong hình phạt, thi hành xong bản án ngày 19/01/2023). Tính đến ngày thực hiện hành vi phạm tội bị cáo L chưa được xoá án tích, nên bị cáo L còn phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.
Bị cáo thực hiện hai hành vi trộm cắp tài sản, cụ thể ngày 30/8/2023 bị cáo trộm cắp tài sản của A Trần Ngọc Q là 01 chiếc máy tính xách tay trị giá 2.500.000đồng và ngày 04/9/2023, bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp 02 máy tính xách tay tổng trị giá 28.200.000đồng. Cả hai lần bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp xảy ra tại hai thời điểm khác nhau và đều đủ định lượng truy tố về hành vi trộm cắp tài sản, nên bị cáo còn phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.
- Về nhân thân: Kể từ năm 2008 đến năm 2012, bị cáo Nguyễn Văn L đã bốn lần bị xét xử về bốn lần thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt và đã được xoá án tích.
Căn cứ tính chất hành vi phạm tội; căn cứ tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thì thấy rằng: Phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo L mới đảm bảo trừng trị, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa trong xã hội.
[4]. Về hình phạt bổ sung:
Khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đồng đến 50.000.000đồng”.
Xét thấy: Bị cáo L thuộc hộ cận nghèo, không có tài sản gì có giá trị nên không cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Văn L.
[5]. Về xử lý vật chứng:
Xét thấy: Cơ quan C sát điều tra Công an huyện Cẩm Khê đã trả lại cho người bị hại A Trần Ngọc Q và A Nguyễn Hoàng A là chủ sở hữu hợp pháp 03 chiếc máy tính xách tay và ngày 23/10/2023 trả lại cho chị Đ 01 chiếc xe mô tô là đúng pháp luật nên cần xác nhận.
[6]. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Nguyễn Văn L bán 01 chiếc máy tính xách tay cho anh Phan Tiến S được số tiền 2.200.000đồng, bị cáo đã sử dụng hết số tiền này, chưa bồi thường lại cho anh S. Anh S có quan Đ yêu cầu bị cáo phải bồi thường khoản tiền này. Nên buộc bị cáo phải bồi thường số tiền 2.200.000đồng cho anh S.
[7]. Về án phí: Bị cáo L thuộc đối tượng hộ cận nghèo tại địa phương xã V, nên miễn án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự trong vụ án hình sự theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên, 1. Về điều luật áp dụng:
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn L.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Về hình phạt áp dụng:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, ngày 04/9/2023.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự; áp dụng a, b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự.
Xác nhận cơ quan C sát điều tra Công an huyện Cẩm Khê trả lại cho anh Trần Ngọc Q 01 chiếc máy tính xách tay màu đen nhãn hiệu Dell màu trắng bạc, Core i7, RAM 32GB; 01 chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu Dell màu đen, Core i5, RAM 4GB và trả lại cho anh Nguyễn Hoàng A 01 chiếc máy tính xách tay, nhãn hiệu DELL, màu trắng bạc, Core i7, Ram 16GB.
(Theo biên bản trả lại tài sản ngày 14/9/2023 của cơ quan C sát điều tra Công an huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ).
Xác nhận cơ quan C sát điều tra Công an huyện Cẩm Khê trả lại cho chị Hà Thị Đ chiếc xe mô tô nhãn hiệu Taurus, màu đỏ, đen, số khung RLCS16S209Y41404, số máy 16S2041409, BKS 19T1-X5, đã cũ kèm 01 chìa khoá xe máy.
(Theo biên bản trả lại tài sản ngày 23/10/2023 của cơ quan C sát điều tra Công an huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ).
4. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584, 585, 586, 588 và Điều 589 của Bộ luật Dân sự.
Buộc bị cáo Nguyễn Văn L phải bồi thường cho A Phan Tiến S số tiền 2.200.000đ (Hai triệu hai trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự; người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án, cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
5. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Miễn án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự trong vụ án hình sự cho bị cáo Nguyễn Văn L.
Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kế từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử theo trình tự phúc thẩm.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 08/2023/HS-ST
Số hiệu: | 08/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Khê - Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về