Bản án về tội trộm cắp tài sản số 08/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 08/2022/HS-ST NGÀY 21/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 130/2021/TLST-HS ngày 12 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 267/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 12 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2022/HSST-QĐ ngày 11 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:

Lý Tá G, sinh năm 1987 tại Sóc Trăng; nơi đăng ký thường trú: khóm 1, Phường A, thị xã B, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lý Thanh N, sinh năm 1951 và bà: Nguyễn Thị Ngọc M, sinh năm 1958; vợ, con: không có; nhân thân:

- Quyết định số 0042624/QĐ-XPHC ngày 04/4/2012 Công an quận Gò Vấp, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản,

- Quyết định 0045529/QĐ-XPHC ngày 09/12/2012 Công an Phường 15, quận Bình Thạnh xử phạt 750.000 đồng về hành vi đánh nhau,

- Bản án số 57/2013/HSST ngày 25/3/2013 Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo kháng cáo, Bản án phúc thẩm số 135/2013/HSPT ngày 14/6/2013 Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang y án sơ thẩm; tiền án: Bản án số 134/2019/HSST ngày 20/6/2019 Tòa án nhân dân Tp. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong bản án ngày 24/3/2021; tiền sự: Quyết định số 183/2019/QĐ-TA ngày 06/12/2019 Tòa án nhân dân Quận 9, Tp. Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 21 tháng; bị bắt, tạm giữ, tạm giam: 16/4/2021. Có mặt.

- Bị hại: Chùa Q, địa chỉ: Phường C, quận D, Tp. Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp: Ông Lê A – sư trụ trì, sinh năm 1964, nơi cư trú: Phường C, quận D, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Ngô Xuân B, sinh năm 1960, hộ khẩu thường trú: 1, xã E, huyện F tỉnh Đắk Nông. Vắng mặt.

2. Bà Nguyễn Thị Ngọc M, sinh năm 1958, nơi cư trú: 193/10/2 đường số 20, Phường G, quận H, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền tiêu xài nên trưa ngày 16/4/2021, Lý Tá G điều khiển xe gắn máy biển số 48F5-X từ nhà trọ ở quận H đến chùa Q, địa chỉ: 71/13 đường X, Phường I, quận K với mục đích tìm cách lấy trộm tiền trong thùng công đức trong chùa. Trước khi đi, G chuẩn bị các dụng cụ gồm: 01 đoạn móc kim loại dài khoảng 25 cm, 01 cuộn băng keo hai mặt, 01 đoạn lưỡi cưa dài khoảng 15cm, hai lưỡi được dán băng keo hai mặt xung quanh và được 01 sợi chỉ ở một đầu cưa. Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, G đến gửi xe gắn máy trước cổng chùa Q rồi đi bộ vào bên trong chánh điện của chùa tại lầu 1. G quan sát trong giảng đường Đ không có ai liền đi đến thùng tiền công đức, lấy đoạn lưỡi cưa mang theo sẵn thả vào thùng tiền để tiền trong thùng dính vào băng keo trên lưỡi cưa. Trong lúc G đang kéo lưỡi cưa đang có 55.000 đồng dính trên lưỡi cưa ra khỏi thùng tiền thì bị sư thầy Nguyễn Thiện T và anh Nguyễn Quang U bắt giữ được giao Công an Phường 3, quận Tân Bình giải quyết.

Tại cơ quan điều tra, Lý Tá G đã thừa nhận hành vi phạm tội như nêu trên và khai nhận: Vào ngày 10/4/2021, với thủ đoạn như trên, G đã lấy trộm khoảng 500.000 đồng gồm các mệnh giá khác nhau trong thùng tiền công đức của chùa Q và đã tiêu xài hết. Kết quả xét nghiệm, G dương tính với chất ma túy.

Vật chứng vụ án:

- Số tiền 55.000 đồng là tài sản bị chiếm đoạt, đã thu hồi trả lại cho đại diện hợp pháp của chùa Q là sư thầy Lê A. Sư thầy Lê A đã nhận lại tiền, không có yêu cầu G bồi thường số tiền đã lấy trộm vào ngày 10/4/2021.

- 01 USB chứa 02 đoạn video ghi nhận hành vi phạm tội của G vào ngày 10/4/2021 và ngày 16/4/2021 (lưu kèm hồ sơ vụ án).

- Thu giữ của G: 01 đoạn móc kim loại dài khoảng 25 cm, 01 cuộn băng keo hai mặt, 01 đoạn lưỡi cưa dài khoảng 15cm, hai lưỡi được dán băng keo hai mặt xung quanh và được 01 sợi chỉ ở một đầu cưa; 01 áo sơ mi ngắn tay, 01 quần jean dài, 01 áo khoác jean dài tay thu giữ của G; số tiền 251.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh và 01 xe gắn máy hiệu Honlei, biển số 48F5-X.

G khai xe gắn máy trên là mượn của mẹ ruột là bà Nguyễn Thị Ngọc M vào ngày 10/4/2021 làm phương tiện đi lại. Bà M trình bày mua xe gắn máy trên của một người phụ nữ ở quận T (không rõ lai lịch) vào năm 2020. Khi mua bán, không có giấy đăng ký xe và giấy tờ mua bán xe. Ngày 10/4/202021, G mượn xe làm phương tiện rồi dùng đi trộm cắp, bà không biết. Qua xác minh, xe gắn máy trên do ông Ngô Xuân B, sinh năm 1960, hộ khẩu thường trú: xã E, huyện F, tỉnh Đắk Nông đăng ký sở hữu. Xác minh, hiện ông B không có mặt ở địa phương, đã chuyển đi đâu không rõ địa chỉ. Cơ quan điều tra đã đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng chưa có ai đến nhận.

Tại bản cáo trạng số 130/CT-VKS ngày 10 tháng 8 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Lý Tá G về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về vật chứng và trách nhiệm dân sự thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không có tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Lý Tá G, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Lý Tá G đã có hành vi lén lút chiếm đoạt số tiền 500.00 đồng vào ngày 10/4/2021 và 55.000 đồng vào ngày 16/4/2021 của chùa Q, tuy số tiền chiếm đoạt mỗi lần dưới 2.000.000 đồng nhưng trước đó bị cáo đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích, nên lần phạm tội này của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, thuộc trường hợp “Đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Đối với hành vi phạm tội vào ngày 16/4/2021, bị cáo đang thực hiện hành vi lấy số tiền 55.000 đồng, chưa rút được tiền ra khỏi thùng tiền thì bị tri hô bắt quả tang, như vậy bị cáo không thực hiện được hành vi đến cùng là ngoài ý muốn của bị cáo, thuộc trường hợp “Phạm tội chưa đạt”, là tình tiết quyết định hình phạt theo quy định tại Điều 15 và khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo là nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội. Nó vừa trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu, quản lý tài sản hợp pháp của công dân được Nhà nước và pháp luật bảo hộ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác bị pháp luật ngăn cấm và bị trừng trị nhưng do động cơ tham lam nên bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm một cách liều lĩnh, bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Xét nhân thân bị cáo là xấu, bị cáo đã bị kết án và xử phạt hành chính nhưng không lấy làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Trong vụ án này, bị cáo đã thực hiện hành vi trộm cắp 02 lần, với mỗi lần thực hiện hành vi đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, nên hành vi phạm tội của bị cáo được xác định là “Phạm tội 02 lần trở lên”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù thật nghiêm nhằm mục đích giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi một phần và trả lại cho bị hại, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chùa Q có đại diện hợp pháp là sư thầy Lê A đã nhận lại số tiền 55.000 đồng bị chiếm đoạt vào ngày 16/4/2021 và không có yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 500.000 đồng chiếm đoạt của chùa Q vào ngày 10/4/2021 nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện không yêu cầu bồi thường thêm của bị hại.

[5] Về vật chứng vụ án:

- 01 USB chứa 02 đoạn video ghi nhận hành vi phạm tội của G (lưu kèm hồ sơ vụ án) là chứng cứ của vụ án và có thể lưu giữ trong hồ sơ vụ án nên cần lưu hồ sơ vụ án.

- 01 đoạn móc kim loại dài khoảng 25 cm; 01 cuộn băng keo hai mặt; 01 đoạn giấy nhựa màu trắng 01 đoạn lưỡi cưa dài khoảng 15cm, hai lưỡi được dán băng keo hai mặt xung quanh và được 01 sợi chỉ ở một đầu cưa là công cụ phạm tội nên tịch thu và tiêu hủy.

- 01 áo sơ mi ngắn tay, 01 quần jean dài, 01 áo khoác jean dài tay, số tiền 251.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh thu giữ của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

- 01 xe gắn máy hiệu Honlei, biển số 48F5-X thu giữ của bị cáo, xét thấy xe gắn máy trên có nguồn gốc không rõ ràng, cần giao Chi cục thi hành án dân sự quận Tân Bình đăng báo tìm chủ sở hữu xe trong một thời gian nhất định, quá thời hạn trên không có ai đến nhận thì lập thủ tục nộp ngân sách Nhà nước.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm h, s khoản 1 Điều 51, Điều 15 và khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự; Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106; Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

[1] Tuyên bố bị cáo Lý Tá G phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo: Lý Tá G 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/4/2021.

[2] Lưu hồ sơ vụ án 01 USB chứa 02 đoạn video ghi nhận hành vi phạm tội của bị cáo.

Tịch thu và tiêu hủy: 01 đoạn móc kim loại dài khoảng 25 cm; 01 cuộn băng keo hai mặt; 01 đoạn giấy nhựa màu trắng; 01 đoạn lưỡi cưa dài khoảng 15cm, hai lưỡi được dán băng keo hai mặt xung quanh và được 01 sợi chỉ ở một đầu cưa;.

Trả lại cho bị cáo: 01 áo sơ mi ngắn tay, 01 quần jean dài, 01 áo khoác jean, số tiền 251.000 (hai trăm năm mươi mốt ngàn) đồng và 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu xanh, số imei: 356497/08/639812/2.

Giao Chi cục thi hành án dân sự quận Tân Bình đăng báo tìm chủ sở hữu 01 xe gắn máy hiệu Honlei, biển số 48F5-X số khung: LF3XCG5091AA00612, số máy: 1P50FMG10607637 trong thời gian 01 năm, quá thời hạn trên không có ai đến nhận thì lập thủ tục nộp ngân sách Nhà nước.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 133/PNK ngày 28/9/2021 của Công an quận Tân Bình).

[3] Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 08/2022/HS-ST

Số hiệu:08/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về