TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHƯỚC LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 07/2024/HS-ST NGÀY 24/01/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 24 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã P xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 72/2023/TLST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 96/2023/QĐXXST – HS ngày 15 tháng 12 năm 2023 đối với các bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Văn V(Tên gọi khác: D bảy màu), sinh năm 1990; Nơi sinh: B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; HKTT: Ấp Hựu Lộc, xã Long Hựu Tây, huyện Cần Đước, tỉnh A, Nơi cư trú: khu phố 2, phường Phước Bình, thị xã P, tỉnh B; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 02/12; Tiền án, tiền sự: Không (Bị cáo có nhân thân xấu, năm 2008 phạm tội Cố ý làm hư hỏng tài sản bị Tòa án nhân dân huyện P (cũ) tuyên phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo thời gian thử thách 18 tháng theo Bản án số 86/2008/HSST ngày 17/10/2008; năm 2010 phạm tội Cướp tài sản bị Tòa án nhân dân thị xã P tuyên phạt 07 năm tù giam đồng thời tổng hợp hình phạt tại Bản án số 86/2008/HSST ngày 17/10/2008 của Tòa án nhân dân huyện P (cũ) tại Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2011/HSST ngày 25/4/2011 tổng hợp hình phạt 07 năm 06 tháng tù;Năm 2017 phạm tội Trộm cắp tài sản bị Tòa án nhân dân huyện Phú Riềng tuyên phạt 04 năm tù theo Bản án số 44/2017/HSST ngày 18/7/2017, đã được xóa án tích); Họ và tên cha: Nguyễn Văn X, sinh năm 1960; họ và tên mẹ: Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1961. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/7/2023 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Họ và tên: Võ Tấn T(Tên gọi khác: T mập), sinh năm 1998, Nơi sinh: B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo:Không, HKTT: Khu phố 4, phường Long Phước, thị xã P, tỉnh B, Nghề nghiệp: Thợ cửa sắt; Trình độ học vấn:
06/12; Giới tính: Nam; Tiền án, tiền sự: Không (Bị cáo có nhân thân xấu, năm 2017 phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy bị Tòa án nhân dân thị xã P tuyên phạt 04 năm tù theo Bản án số 02/2017/HSST ngày 30/11/2017, đã được xóa án tích); Họ và tên cha: Võ T, sinh năm 1972; họ và tên mẹ: Nguyễn Thị Hồng L, sinh năm 1976. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/7/2023 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người bị hại: Ông Cao Tiến S, sinh năm 1988, HKTT: Thôn Tân Lập, xã Nam Nung, huyện Krông Nô, tỉnh Đak Nông; Chổ ở hiện nay: Khu phố Phước Vĩnh, phường Phước Bình, thị xã P, tỉnh B. (Vắng mặt)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1989, địa chỉ: Ấp 8, Tân Thành, Thành phố Đồng Xoài, tỉnh B. (Vắng mặt)
2/ Bà Nguyễn Thị Kim T, sinh năm 1992, địa chỉ: Khu phố 1, phường Phước Bình, TX P, tỉnh B. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ ngày 23/07/2023, Võ Tấn Tở khu phố 4, phường Long Phước, thị xã P đi bộ đến nhà Nguyễn Văn Vở khu phố 2, phường Phước Bình, thị xã P chơi. Tại đây, vì không có tiền tiêu xài nên V đã rủ T đi trộm cắp tài sản của người dân để sơ hở và không có người trong coi bán lấy tiền tiêu xài thì T đồng ý. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, V mượn chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen, không rõ biển số của anh T (không rõ nhân thân, lai lịch, địa chỉ và là bạn bè ngoài xã hội của V) đang đứng ở trước nhà V để đi công việc thì anh T đồng ý, rồi V điều khiển xe chở T đi quanh khu vực khu phố Phước Vĩnh, phường Phước Bình, thị xã P tìm tài sản để chiếm đoạt. Khi đi tới sân bóng đá Mini S7 thuộc khu phố Phước Vĩnh, phường Phước Bình, V điều khiển xe đi vào đường hẻm đi được khoảng 500 mét V phát hiện tại nhà trọ “Phúc Khang” thuộc khu phố Phước Vĩnh, phường Phước Bình, trước cửa phòng trọ số 9 có 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Air Blade màu xanh đen, biển số: 48C1-xxxxx do anh Cao Tiến S, SN: 1998, HKTT: Thôn Tân Lập, xã Nâm Nung, huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông; Tạm trú: khu phố Phước Vĩnh, phường Phước Bình, thị xã P là chủ sở hữu. Khi đến gần thì V phát hiện không có người trông coi và có chùm chìa khóa để trên phía sau yên xe. Thấy vậy V điều khiển xe mô tô đi vào gần cửa phòng trọ số 9, cách vị trí chiếc xe khoảng 03 mét, T ngồi phía sau, xuống xe rồi lén lút đi bộ đến vị trí để xe, lấy chìa khóa trên yên xe, còn ổ khóa phòng T móc vào ổ khóa cửa phòng trọ số 9. Sau đó T dùng chìa khóa xe (Remote) bấm mở khóa và khởi động xe rồi nhanh chóng điều khiển xe trộm cắp được chạy đến chân núi Bà Rá thuộc thị xã P. Sau khi trộm được xe mô tô, V điện thoại cho Nguyễn Văn C ở ấp 8, xã Tân Thành, thành phố Đồng Xoài, tỉnh B qua số điện thoại liên lạc là 0982407273 và hỏi C “có xe không giấy bạn mua không” thì C trả lời “để chạy lên coi xe” rồi C hẹn V điều khiển xe mô tô đến khu vực tượng đài Phú Riềng, huyện Phú Riềng để xem xe thì V đồng ý. Lúc này, V nói T điều khiển xe mô tô trên đến ngã tư Phú Riềng để bán cho C thì T đồng ý. Sau đó, T điều khiển xe trộm cắp được đến quán nước gần ngã tư Phú Riềng, huyện Phú Riềng. Sau khi vào quán thì T gọi điện thoại cho C và nói “anh V gọi anh chưa” thì C trả lời là nói rồi và C kêu T đợi một tý, sau đó T nói vị trí T đang ngồi để C tìm đến. Khoảng 17 giờ cùng ngày thì C đến quán gặp T và xem xe. Sau khi xem xe mô tô xong thì C gọi lại cho V và đồng ý mua chiếc xe trên với giá 7.500.000 đồng. Sau đó C lấy xe trước và hẹn V đến tối sẽ thanh toán tiền. Sau khi T điện thoại cho V thì V kêu T giao xe cho C. Do T không có phương tiện đi lại và không có tiền về lại thị xã P nên C ứng trước cho T số tiền 100.000 đồng để T ra đường bắt xe đò Thành Công về nhà.
Đến khoảng 19 giờ 25 phút cùng ngày, C điện thoại cho V và kêu V gửi số tài khoản để C chuyển trả tiền mua xe. Lúc này, V hỏi mượn số tài khoản của Nguyễn Thị Kim Th ở khu phố 2, phường Phước Bình, thị xã P (em gái V) để cho C chuyển tiền thì Th đồng ý. Đến 19 giờ 28 phút ngày 23/7/2023, C chuyển vào số tài khoản của Th 7.400.000 đồng và trừ 100.000 đồng do C đưa cho T vào lúc chiều để đón xe đi về.
Đến ngày 26/7/2023, qua mạng xã hội thì V biết việc trộm cắp xe mô tô của V đã bị Cơ quan Công an phát hiện và hiện đang truy tìm nên V đã đến Công an phường Phước Bình để đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình cùng với T như đã nêu trên. Công an phường Phước Bình, thị xã P đã thu giữ số tiền 7.400.000 đồng do Th giao nộp; 01 đôi dép kẹp màu đen có chữ Adidas và 01 điện thoại màu di động màu đen, loại Forme của Nguyễn Văn V. Sau đó Công an phường Phước Bình, thị xã P đã bàn giao đối tượng V cùng toàn bộ hồ sơ và tang vật đã thu giữ cho Cơ quan CSĐT Công an thị xã P để điều tra theo thẩm quyền. Cùng ngày, T biết V đã đến Cơ quan Công an đầu thú nên T cũng đã đến Cơ quan CSĐT Công an thị xã P để đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình cùng đồng phạm. (bút lúc từ 157 đến 185).
Đến ngày 28/7/2023, qua mạng xã hội Facebook thì C thấy bài đăng truy tìm chiếc xe mô tô biển số 48C1 - xxxxx bị trộm cắp của Công an thị xã P. Lúc này C biết chiếc xe do C mua là xe trộm cắp nên C đã thuê xe ba gác chở đến Cơ quan Công an để giao nộp. Trong quá trình di chuyển thì C bị ngã xe, đồng thời biển số 48C1 - xxxxx gắn vào đuôi xe đã bị bung ra nên C đã tháo và vứt bỏ biển số trên vào lô cao su ven đường (C không nhớ địa điểm cụ thể do trời lúc đó đang mưa).
Tại Cơ quan CSĐT Công an thị xã P, Võ Tấn Tvà Nguyễn Văn V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Căn cứ bản kết luận định giá tài sản số 16/HĐ. ĐGTSTTHS. 23 ngày 01/8/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã P kết luận: tại thời điểm ngày 23/7/2023 giá trị của 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda AIR BLADE có giá trị là 33.600.000 đồng (bút lục 62).
Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Air Blade màu xanh đen, biển số: 48C1-xxxxx là vật chứng của vụ án ngày 16/8/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 19 trả lại cho anh S. Anh S đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu về việc bị mất biển số đồng thời đã làm đơn xin bãi nại cho các bị can. (bút lúc số 134).
Đối với 01 đôi dép kẹp màu đen có chữ Adidas là tang vật của vụ án không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 điện thoại màu di động Forme màu đen là phương tiện liên lạc để phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.
Đối với số tiền 7.400.000 đồng là số tiền của Nguyễn Văn C bỏ ra để mua xe. Xét thấy C không biết chiếc xe trên là tài sản do phạm tội mà có đồng thời đã giao nộp lại chiếc xe trên cho Cơ quan công an nên việc trả lại số tiền trên cho C là phù hợp.
Tại bản cáo trạng số 72/CTr – VKS ngày 15/11/2023 Viện kiểm sát nhân dân thị xã P đã truy tố các bị cáo Nguyễn Văn Vvà Võ Tấn Tvề tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã P thực hành quyền công tố tại phiên toà vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như bản cáo trạng, căn cứ tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử tuyên các bị cáo Nguyễn Văn Vvà Võ Tấn Tphạm tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 17, 58, 38; 35, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Võ Tấn Tmức án từ 07 tháng 10 tháng tù giam; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Vtừ 07 tháng 10 tháng tù giam.
Tại phiên tòa: Các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã P, Viện kiểm sát nhân dân thị xã P trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã P đã truy tố, phù hợp với lời khai của người làm chứng về thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở khẳng định:
Do mục đích tư lợi cá nhân, nên vào ngày 23/7/2023 Võ Tấn Tvà Nguyễn Văn Vlợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của bị hại Cao Tiến S ở khu phố Phước Vĩnh, phường Phước Bình, thị xã P đã lén lút chiếm đoạt 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Air Blade màu xanh đen, biển số: 48C1-xxxxx có trị giá 33.600.000 đồng.
T sản của tổ chức, công dân được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm, chiếm đoạt bất hợp pháp đều bị pháp luật nghiêm cấm dưới mọi hình thức. Các bị cáo có đầy đủ nhận thức, biết việc chiếm đoạt tài sản nêu trên là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện hành vi trộm cắp các tài sản để bán lấy tiền tiêu xài bản. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm mất trật tự an ninh tại địa phương. Vì vậy, cần có hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo để cải tạo giáo dục đối với bị cáo, đồng thời nhằm răn đe đối với người khác, tạo công tác phòng ngừa chung trong xã hội.
[3] Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, bị cáo V là người khởi xướng và rủ rê bị cáo T đi trộm cắp tài sản và là người tìm người mua tài sản trộm cắp được. Bị cáo T là người thực hành tội phạm. Các bị cáo đều có nhân thân xấu, đều đã từng vi phạm pháp luật và bị xử phạt tù, tuy đã được xóa án tích nhưng thể hiện các bị cáo xem thường pháp luật.
Khi quyết định hình phạt cũng xem xét tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Văn Vvà Võ Tấn Tđều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị hại đã làm đơn xin bãi nại cho các bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, cần xem xét khi quyết định hình phạt.
Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[3] Về vật chứng vụ án:
Đối với 01 đôi dép kẹp màu đen có chữ Adidas là tang vật của vụ án không còn giá trị sử dụng nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 điện thoại màu di động Forme màu đen là phương tiện liên lạc để phạm tội nên cần tuyên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.
Đối với số tiền 7.400.000 đồng là số tiền của Nguyễn Văn C bỏ ra để mua xe. Xét thấy C không biết chiếc xe trên là tài sản do phạm tội mà có đồng thời đã giao nộp lại chiếc xe trên cho Cơ quan công an nên việc trả lại số tiền trên cho C là phù hợp.
[4] Đối với Nguyễn Văn C là người mua lại chiếc xe trên của T và V. Khi mua xe C không biết đây là tài sản do người khác phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là đúng quy định.
Đối với Nguyễn Thị Kim Th là người nhận hộ tiền cho T và V qua tài khoản mà C chuyển nhưng Th không biết đó là tiền do phạm tội mà có. Do đó Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là đúng quy định.
[5] Đối với quan điểm của Kiểm sát viên về mức hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp nên được ghi nhận.
[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
[1] Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn V(Tên gọi khác: D Bảy Màu) và Võ Tấn T(Tên gọi khác: T Mập) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, các điều 17, 58, 32, 38 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V(Tên gọi khác: D Bảy Màu) 08 (Tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 26/7/2023 Xử phạt bị cáo Võ Tấn T(Tên gọi khác: T Mập) 08 (Tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 26/7/2023.
[2]. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tuyên:
Tịch thu tiêu hủy 01 đôi dép kẹp màu đen có chữ Adidas.
Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại màu di động Forme màu đen.
Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan số tiền 7.400.000 (Bảy triệu bốn trăm nghìn) đồng.
Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0003818 ngày 08/12/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã P.
[3]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Mỗi bị cáo phải nộp số tiền 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[4]. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 07/2024/HS-ST
Số hiệu: | 07/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Phước Long - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về