TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ TÚ, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 07/2024/HS-ST NGÀY 15/03/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 15 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 03/2024/TLST-HS ngày 18 tháng 02 năm 2024 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2024/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 02 năm 2024, đối với bị cáo:
Lý P (Tên khác: Không), sinh ngày 01 tháng 01 năm 1972; Nơi sinh: Huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng; Nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng; Dân tộc: Khmer; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Đạo phật; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ văn hóa (học vấn): 8/12; Nghề nghiệp: Không nghề; Con ông: Lý S (đã chết) và bà: Lý Thị Đ (đã chết); anh, chị em ruột có 07 người, lớn nhất sinh năm 1953, nhỏ nhất sinh năm 1974; vợ Lâm Thị T, sinh năm 1970; con có 05 người, lớn nhất sinh năm 1996, nhỏ nhất sinh năm 2017; Tiền án: 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”; Tiền sự: không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, tại Nhà tạm giữ Công an huyện Mỹ Tú từ ngày 07 tháng 11 năm 2023 đến nay (bị cáo có mặt).
- Bị hại: Công ty TNHH xây dựng B;
Địa chỉ: Số 44, đường B, Khóm N, Phường M, thành phố B, tỉnh B.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Tư T, chức vụ: Giám đốc.
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Võ Bỉnh K; địa chỉ: ấp N, xã N, huyện H, tỉnh B (theo giấy uỷ quyền số: 01/UQ-BN ngày 20 tháng 11 năm 2023) (vắng mặt).
2. Ông Lý Phong V, sinh năm 1994;
Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Danh P, sinh năm 1950; Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).
Người làm chứng:
1. Ông Lâm Minh L, sinh năm: 1986;
Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).
2. Ông Lâm Sa R;
Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Lý P hương, sinh ngày 01 tháng 01 năm 1972, do không có tiền tiêu xài cá nhân nên bị cáo P đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản với các lần cụ thể như sau:
Lần thứ nhất: Vào ngày 23 tháng 9 năm 2023 Công ty TNHH xây dựng B thi công công trình mở rộng lộ giới đường tỉnh 938, quá trình thi công đến đoạn thuộc ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng, thì xe lu bị hỏng, không hoạt động được nên đỗ sát vào lề đường, vào thời điểm trên ông K là nhân viên của Công ty đi kiểm tra thì phát hiện xe lu bị mất 02 (hai) đèn tròn chiếu sáng phía trước có đường kính rộng 15cm; 01 (một) gương chiếu hậu bên trái dạng hình chữ nhật có màu đen, kích thước rộng 15cm, dài 30cm. Qua tìm hiểu ông K biết được bị cáo Lý P là người lấy trộm các tài sản nêu trên nên tố giác hành vi của bị cáo Lý P đến Công an xã Thuận Hưng, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng để xử lý theo quy định của pháp luật. Sau khi tiếp nhận nguồn tin Công an xã Thuận Hưng, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng đã tiến hành kiểm tra, xác minh vụ việc và bị cáo Lý P đã thừa nhận hành vi lấy trộm các tài sản nêu trên đem giấu vào trong rạp đám cưới cách xe lu khoảng 07m nhằm mục đích khi không ai để ý thì sẽ đem đi bán lấy tiền tiêu xài cá nhân.
Lần thứ hai: Vào khoảng 04 giờ sáng, ngày 31 tháng 10 năm 2023, bị cáo P vào chuồng gà của ông Lý Phong V bắt trộm 03 (ba) con gà nòi gồm: 02 (hai) con gà mái và 01 (một) con gà trống, tổng trọng lượng khoảng 06 kg bỏ vào bao xi măng đem về nhà. Đến khoảng 06 giờ sáng cùng ngày, bị cáo P đem số gà đã trộm được đi đến nhà của ông Lâm Sa R tại ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng kêu ông R để bán gà nhưng R trả lời: “Thôi đi, tôi không mua”. Sau đó, bị cáo P đem gà về nhà làm thịt nhậu một mình. Do phát hiện gà của mình bị mất và nghi ngờ bị cáo Lý P bắt trộm nên ông Lý Phong V đến Công an xã Thuận Hưng, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng trình báo sự việc và Công an xã Thuận Hưng mời bị cáo Lý P làm việc.
Qua quá trình lấy lời khai, hỏi cung bị cáo Lý P đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 40/KL-HĐĐGTS, ngày 26/10/2023 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng, kết luận: Xe lu mua vào tháng 9 năm 2022 với giá 570.000.000 đồng hiện bị mất linh kiện gồm:
- 02 (Hai) đèn chiếu sáng phía trước xe lu, có đường kính rộng 15cm: Nguyên giá: 1.300.000 đồng; Giá trị còn lại: 90%; Thành tiền: 1.170.000 đồng.
- 01 (một) gương chiếu hậu bên trái xe lu, hình chữ nhật, có đường kính rộng 15cm, dài 30cm, màu đen: Nguyên giá: 200.000 đồng; Giá trị còn lại: 90%; Thành tiền: 180.000 đồng Tổng giá trị tài sản được định giá là: 1.350.000 đồng (BL số 21).
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 45/KL-HĐĐGTS, ngày 14/11/2023 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng, kết luận: 03 (ba) con gà nòi, trong đó 02 (hai) con gà mái có trọng lượng 04kg; 01 (một) con gà trống có trọng lượng 02kg. Tổng trọng lượng của 03 (ba) con gà là 06kg: Giá khảo sát: 110.000 đồng/kg; Thành tiền: 660.000 đồng;
Tổng giá trị tài sản được định giá là: 660.000 đồng (BL số 28).
Tổng giá trị tài sản mà bị cáo Lý P đã chiếm đoạt 02 (hai) lần là 2.010.000 đồng.
Về vật chứng của vụ án: trong quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Tú đã thu giữ tài sản đồ vật, tài liệu gồm: 02 (Hai) đèn chiếu sáng phía trước xe lu, có đường kính rộng 15cm; 01 (một) gương chiếu hậu bên trái xe lu, hình chữ nhật, có đường kính rộng 15cm, dài 30cm, màu đen. Sau khi điều tra làm rõ, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng đã trả lại các tài sản trên cho chủ sở hữu Công ty TNHH xây dựng B.
Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại Công ty TNHH xây dựng B, Lý Phong V không yêu cầu bị cáo Lý P bồi thường thiệt hại.
Tại bản cáo trạng số: 05/CT-VKS-MT ngày 17 tháng 01 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng đã truy tố bị cáo Lý P về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo P đã khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo như đã nêu trên, thừa nhận cáo trạng truy tố bị cáo là đúng tội.
Tại phiên toà sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “trộm cắp tài sản”. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Lý P và đề nghị xử phạt bị cáo từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Ngoài ra, bị cáo còn phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo Lý P nói lời nói sau cùng: Bị cáo P nhận thấy hành vi của bị cáo là sai nên bị cáo phải chịu hình phạt của pháp luật, bị cáo P hứa không sai phạm và xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.
[1] Về tố tụng:
[1.1] Tại phiên tòa, người đại diện theo uỷ quyền của bị hại Công ty TNHH xây dựng B là ông Võ Bỉnh K và bị hại ông Lý Phong V vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt); người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Danh P; người làm chứng ông Lâm Minh L, ông Lâm Sa R vắng mặt không lý do. Xét thấy, trong quá trình điều tra thì những người nêu trên đã có lời khai rõ ràng và việc vắng mặt cũng không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên căn cứ vào khoản 1 Điều 292; khoản 1 Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt đối với những người nêu trên.
[1.2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Tú, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Tú trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại đối với hành vi tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Tú, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Tú. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung:
Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Lý P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận của bị cáo P hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo P tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của các bị hại cùng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và những người làm chứng;
phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra đã thu thập được nên Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Lần thứ nhất vào ngày 23 tháng 9 năm 2023 bị cáo Lý P đã lấy trộm của bị hại là Công ty TNHH xây dựng B gồm 02 (hai) đèn tròn chiếu sáng phía trước có đường kính rộng 15cm; 01 (một) gương chiếu hậu bên trái dạng hình chữ nhật, có màu đen, kích thước rộng 15cm, dài 30cm đem giấu vào rạp đám cưới cách xe Lu khoảng 07m, nhằm mục đích khi không ai để ý thì sẽ đem đi bán lấy tiền tiêu xài, sau khi sự việc bị phát hiện bị cáo Lý P đã tự nguyện giao nộp các tài sản đã lấy trộm của bị hại Công ty TNHH xây dựng B; Lần thứ hai vào khoảng 04 giờ sáng, ngày 31 tháng 10 năm 2023, bị cáo Lý P vào chuồng gà của ông Lý Phong V bắt trộm 03 (ba) con gà nòi gồm: 02 (hai) con gà mái và 01 (một) con gà trống, tổng trọng lượng khoảng 06 kg bỏ vào bao xi măng đem bán cho ông R nhưng ông R không mua. Sau đó, bị cáo Lý P đem gà về nhà làm thịt nhậu một mình. Bị cáo Lý P đã thừa nhận toàn bộ hành vi trộm cắp gà của bị hại Lý Phong V.
[3] Hành vi nêu trên của bị cáo Lý P đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Tú truy tố bị cáo P về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[4] Bị cáo P là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức được tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác là bất khả xâm phạm, nhưng chỉ vì ham muốn có tiền tiêu xài mà bị cáo cố ý thực hiện tội phạm. Hành vi phạm tội của bị cáo là ít nghiêm trọng nhưng đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác do pháp luật hình sự bảo vệ, đặc biệt là ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình an ninh, trật tự ở địa phương, làm cho quần chúng hoang mang. Vì vậy, cần thiết xử phạt tù thật nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo để bị cáo có thời gian học tập, cải tạo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội, biết tôn trọng pháp luật.
[5] Tuy nhiên, khi lượng hình cũng cần xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho bị cáo P như sau:
Xét về nhân thân, bị cáo P có nhân thân xấu. Bị cáo P đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số: 23/2023/HS-ST ngày 13 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú tuyên phạt 06 (sáu) tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong vào ngày 08 tháng 8 năm 2023, nhưng chưa được xóa án tích. Đến ngày 23 tháng 9 năm 2023 bị cáo P thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của Công ty TNHH xây dựng B (theo kết quả định giá số tiền phạm tội có giá trị là 1.350.000 đồng) và ngày 31 tháng 10 năm 2023 bị cáo P tiếp tục trộm gà của bị hại Lý Phong V (theo kết quả định giá số tiền phạm tội có giá trị là 660.000 đồng), bị cáo P có tiền án và chưa xóa án tích nhưng tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý, bị cáo P 02 (hai) lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản với tổng giá trị tài sản tại thời điểm chiếm đoạt là 2.010.000 đồng nên phải chịu tình tiết tăng nặng phạm tội 02 (hai) lần trở lên theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Tuy nhiên, sau khi phạm tội bị cáo P thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo P phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn đối với tài sản của bị hại Công ty TNHH xây dựng B bị cáo đã trả lại, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đồng thời, bị cáo P là là người dân tộc Khmer nên trình độ và sự am hiểu pháp luật còn hạn chế nên cần phải áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Tú truy tố bị cáo P về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[6] Lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Tú về tội danh, mức hình phạt, áp dụng pháp luật, trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[7] Về trách nhiệm dân sự:
Bị hại Công ty TNHH xây dựng B đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
Bị hại Lý Phong V không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[8] Về vật chứng của vụ án: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã xử lý xong, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[9] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Lý P người bị kết án nên bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: điểm b Khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự;
Căn cứ vào khoản 2 Điều 136; Điều 268; Điều 269; Điều 331; Điều 333;
Điều 336; Điều 337 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Căn điểm a khoản 1 Điều 23 và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Tuyên bố: Bị cáo Lý P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
1. Xử phạt bị cáo Lý P 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 07 tháng 11 năm 2023.
2. Về trách nhiệm dân sự:
Bị hại Công ty TNHH xây dựng B đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo P bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
Bị hại Lý Phong V không yêu cầu bị cáo P bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
3. Về vật chứng: Không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
4. Về án phí: Bị cáo Lý P được phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; các bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được cấp, tống đạt hợp lệ theo quy định pháp luật, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm.
6. Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thi hành án Dân sự năm 2014, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thi hành án Dân sự năm 2014; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thi hành án Dân sự năm 2014.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 07/2024/HS-ST
Số hiệu: | 07/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Tú - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về