Bản án về tội trộm cắp tài sản số 07/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH THUỶ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 07/2024/HS-ST NGÀY 05/02/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 05 tháng 2 năm 2024, Tòa án nhân dân huyện T mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai trực tuyến tại điểm cầu Trung tâm: Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh P; địa chỉ: Khu 5, thị trấn T, huyện T, tỉnh P. Điểm cầu thành phần (01 điểm cầu): Phòng xét xử trực tuyến Trại tạm giam Công an tỉnh P; địa chỉ: Khu 12, xã Tiên Kiên, huyện L, tỉnh P. Vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 62/2023/TLST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2024/QĐXXST- HS ngày 23 tháng 01 năm 2024 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Cao Tiến D; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 22 tháng 4 năm 1995, tại tỉnh P; Nơi ĐHKTT và chỗ ở hiện nay: Khu Đ, xã CD, huyện C, tỉnh P; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 8/12. Bố đẻ: Cao ĐH (đã chết);Mẹ đẻ: Trần Thị H, sinh năm 1969, trú tại khu Đ, xã CD, huyện C, tỉnh P; Vợ: Ngô Thị Tuyết M (đã ly hôn); Có 1 con, sinh năm 2015; Có 2 anh em ruột, bị cáo Cao Tiến D là thứ hai;

- Tiền án:

+ Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2016/HSST ngày 29/6/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái, Cao Tiến D bị xử phạt 2 năm tù về tội Trộm cắp tài sản, buộc D phải bồi thường tổng số tiền 17.077.500đ và chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm, 853.000đ tiền án phí dân sự trong vụ án hình sự, chưa chấp hành xong phần bồi thường.

+ Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2019/HS-ST ngày 14/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Ba, tỉnh P, Cao Tiến D bị xử phạt 3 năm 6 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, buộc D phải bồi thường tổng số tiền 21.000.000đ và chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm, 1.050.000đ tiền án phí dân sự trong vụ án hình sự, chưa chấp hành xong phần bồi thường.

Tiền sự: Không; Lịch sử bản thân:

+ Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 103/2014/HSST ngày 03/7/2014 của Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố hà Nội, Cao Tiến D bị xử phạt 9 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, buộc D phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm, đã được xóa án tích.

+ Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 175/2016/HSST ngày 09/9/2016 của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Cao Tiến D bị xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, tổng hợp hình phạt 2 năm tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2016/HSST ngày 29/6/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái, buộc D phải chấp hành hình phạt 3 năm tù, đã được xóa án tích.

Bị cáo Cao Tiến D bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/9/2023, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh P. (Có mặt).

2. Họ và tên: Nguyễn Tiến M; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam;

Sinh ngày: 01 tháng 02 năm 2000, tại tỉnh P; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Khu Cầu Tiến, xã XT, huyện C, tỉnh P; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12. Bố đẻ: Nguyễn Đức T, sinh năm 1973, Mẹ đẻ: Nguyễn Thị D, sinh năm 1972,Cùng trú tại xã XT, huyện C, tỉnh P; Vợ, con chưa có; Có 3 anh em ruột, bị cáo Nguyễn Tiến M là thứ nhất; Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo Nguyễn Tiến M bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/9/2023, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh P. (có mặt)

 - Bị hại:

+ Ông Nguyễn Khắc V, sinh năm: 1958. Địa chỉ: Khu 9, xã Bản Nguyên, huyện L, tỉnh P. (Vắng mặt)

+ Ông Nguyễn Quang H, sinh năm: 1980. Địa chỉ: Khu 1, xã Xuân Huy, huyện L, tỉnh P. (Vắng mặt)

+ Bà Đỗ Thị V, sinh năm: 1974. Địa chỉ: Khu 10, xã Đồng Trung, huyện T, tỉnh P.(Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

2 Khoảng cuối tháng 8/2023, Cao Tiến D, sinh năm 1995, trú tại khu Đ, xã CD, huyện C, tỉnh P nảy sinh ý định trộm cắp xe máy để bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Để thực hiện hành vi trộm cắp xe máy, D tự chế 01 vam phá khóa, sau đó rủ Nguyễn Tiến M, sinh năm 2000, trú tại khu Cầu Tiến, xã XT, huyện C, tỉnh P cùng tham gia trộm cắp. D và M thống nhất, M là người điều khiển xe mô tô chở D đi trộm cắp, sau mỗi lần, D sẽ trả cho M 200.000đ.

Với phương thức thủ đoạn như trên, từ ngày 27/8/2023 đến ngày 03/9/2023, Cao Tiến D và Nguyễn Tiến M đã thực hiện 03 vụ trộm cắp xe mô tô trên địa bàn các huyện L và huyện T, tỉnh P. Cụ thể như sau:

Vụ 1: Vụ Trộm cắp xe mô tô xảy ra ngày 27/8/2023 tại khu 9, xã Bản Nguyên, huyện L, tỉnh P Khoảng 11 giờ ngày 27/8/2023, Cao Tiến D gọi điện thoại cho Nguyễn Tiến M bảo M lái xe mô tô chở D đi trộm cắp xe. Sau đó, M mượn 01 xe mô tô Yamaha Exciter, màu đỏ-trắng, biển kiểm số 29X1-xxxxx của Nguyễn Anh Tuấn, sinh năm 1999, trú tại khu Ngâu, xã CD, huyện C, tỉnh P chở D đến khu 9, xã Bản Nguyên, huyện L thì phát hiện 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh-đen-bạc, biển số 19S1-xxxxx của ông Nguyễn Khắc V, sinh năm 1958, trú tại khu 9, xã Bản Nguyên, huyện L, tỉnh P dựng ở lề đường, không có người trông coi. D xuống xe đi bộ đến vị trí chiếc xe mô tô của ông Vỹ, dùng vam phá khóa mang theo mở khóa điện rồi điều khiển xe cùng với M đi về huyện C. Trên đường về đến cầu Tứ Mỹ tiếp giáp giữa huyện C và huyện Tam Nông, vì sợ bị phát hiện nên D bẻ bỏ biển số xe vứt xuống sông rồi tiếp tục điều khiển xe đi về huyện C.

Tối ngày 27/8/2023, D và M điều khiển chiếc xe mô tô trộm cắp được đến quán karakoke “T” do Chu Thị T, sinh năm 1971, trú tại xã Vân Bán, huyện C, tỉnh P để hát Karaoke. Sau khi hát xong do không đủ tiền thanh toán nên D đặt lại chiếc xe mô tô trên cho bà T, hẹn khi nào có tiền trả thì lấy xe. Ngày 04/9/2023, bà T đã nộp chiếc xe mô tô trên cho Cơ quan điều tra.

Tại Bản kết luận định giá số 43 ngày 23/10/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện L kết luận trị giá chiếc xe máy Honda Wave màu xanh đen bạc, biển kiểm soát 19S1-xxxxx tại thời điểm bị trộm cắp là 13.000.000đ.

Vụ 2: Vụ trộm cắp xe máy ngày 02/9/2023 tại khu 4, xã Xuân Huy, huyện L, tỉnh P Khoảng 17 giờ, ngày 02/9/2023, Cao Tiến D gọi điện thoại cho Nguyễn Tiến M bảo lái xe chở D đi sang thị xã P trộm cắp xe mô tô. Sau đó, M điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh, biển số 19G1-xxxxx của ông Nguyễn Đức T (bố đẻ M) chở D đi qua bến đò Chí Chủ sang thị xã P nhưng không trộm cắp được nên tiếp tục đi theo đường tỉnh lộ xxx hướng đi về cầu Phong Châu, huyện L. Khoảng 19 giờ cùng ngày, khi đi đến địa 3 phận khu 4, xã Xuân Huy, huyện L, D phát hiện bên phải đường theo hướng đi có một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen, biển số 19S1- xxxxx của anh Nguyễn Quang H, sinh năm 1980, trú tại khu 1, xã Xuân Huy, huyện L, tỉnh P dựng ở ven đường, không có người trông giữ nên D xuống xe, dùng vam phá khóa mở khóa điện rồi điều khiển xe mô tô cùng M đi về huyện C, tỉnh P. Trên đường về, do sợ bị phát hiện nên D bẻ và vứt bỏ biển kiểm soát 19S1-xxxxx ở ven đường rồi điều khiển xe mô tô trên về nhà.

Tại Bản kết luận định giá số 43 ngày 23/10/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện L kết luận trị giá chiếc xe mô tô Yamaha Sirius, màu đen, biển số 19S1-xxxxx tại thời điểm bị trộm cắp là 12.000.000đ.

Vụ 3: Vụ trộm cắp xe máy ngày 03/9/2023 tại khu 9, xã Đồng Trung, huyện T, tỉnh P Tối ngày 02/9/2023, sau khi trộm cắp được chiếc xe máy Yamaha Sirius, biển số 19S1-xxxxx, Cao Tiến D tiếp tục rủ Nguyễn Tiến M đi trộm cắp xe mô tô và hẹn gặp nhau vào trưa ngày 03/9/2023 tại cổng trường THCS XT, huyện C, tỉnh P. Đồng thời D bảo M chuẩn bị 01 biển số xe mô tô khác để gắn vào xe mô tô dùng làm phương tiện đi trộm cắp. Trưa ngày 03/9/2023, M dùng cờ lê cỡ 10 - 12 tháo biển kiểm soát xe mô tô 19AF-xxxxx của M rồi đến điểm hẹn gặp D. Khoảng 12 giờ trưa ngày 03/9/2023, D điều khiển xe mô tô Yamaha Sirius, màu đen trộm cắp được đến điểm hẹn. Khi gặp nhau, D và M cùng nhau lắp biển kiểm số 19AF-xxxxx vào chiếc xe Yamaha Sirius, màu đen. Sau đó, M điều khiển xe mô tô trên chở D đi theo đường Hồ Chí Minh hướng từ huyện Tam Nông sang huyện T. Khi đi đến đoạn ngã ba giao nhau giữa đường tỉnh 317 và đường tỉnh 317C thuộc khu 9, xã Đồng Trung, huyện T, tỉnh P phát hiện 01 xe mô tô Honda Supper Dream, biển số 19K5-xxxxx của bà Đỗ Thị V, sinh năm 1974, trú tại khu 10, xã Đồng Trung, huyện T, tỉnh P dựng ở lề đường phía bên trái theo hướng đi, cách đường tỉnh lộ 317 khoảng 15m, không có người trông giữ. D xuống xe, đi bộ đến vị trí chiếc xe mô tô Honda Supper Dream, biển số 19K5-xxxxx dùng vam phá khóa mở khóa điện rồi cùng M đi về huyện C, tỉnh P. Khi đi đến thị trấn T, huyện T, tỉnh P thì bị Công an huyện T phát hiện bắt giữ. Đến ngày 04/9/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T bắt giữ được Nguyễn Tiến M.

Tại Bản kết luận định giá số 31 ngày 06/9/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện T kết luận trị giá chiếc xe máy Supper Dream, biển kiểm số 19K5-xxxxx tại thời điểm bị trộm cắp là 11.000.000đ.

Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã tạm giữ của Cao Tiến D 01 bộ vam phá khoá, 01 xe mô tô nhãn hiệu Supper Dream, gắn biển số 19K5-xxxxx, 01 điện thoại di động Iphone 6S, màu trắng, lắp sim số 038875xxxx; tạm giữ của Nguyễn Tiến M 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen, gắn biển số 19AF-xxxx, 01 chiếc cờ lê 10-12; 01 điện thoại nhãn hiệu 4 Iphone 6 plus, màu trắng, lắp sim số 036683xxxx; tạm giữ của bà Chu Thị T 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha màu xanh, gắn biển số 19Y1-xxxx; tạm giữ của ông Nguyễn Đức T 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu xanh, gắn biển số 19G1-xxxxx. Đồng thời Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã ra quyết định xử lý vật chứng, trả lại cho bà Đỗ Thị V chiếc xe mô tô nhãn hiệu Supper Dream, màu nâu, biển số 19K5-xxxxx; trả lại cho anh Nguyễn Quang H chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, không gắn biển số; trả lại cho ông Nguyễn Khắc V chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh, không gắn biển số; trả lại cho ông Nguyễn Đức T chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh, biển số 19G1-xxxxx.

Các vật chứng còn lại gồm: 01 vam phá khoá; 01 điện thoại di động Iphone 6S, màu trắng, lắp sim số 038875xxxx; 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 6 plus, màu trắng, lắp sim sô 036683xxxx; 01 biển xe mô tô số 19Y1-xxxx; 01 biển xe mô tô số 19AF-xxxx; 01 cờ lê cỡ 10-12 được chuyển theo hồ sơ vụ án để xử lý theo quy định của pháp luật.

Bản cáo trạng số: 01/CT-VKSTT ngày 29/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh P truy tố bị cáo Cao Tiến D về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điểm g, khoản 2 Điều 173 BLHS; truy tố bị cáo Nguyễn Văn M về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS.

Tại phiên toà Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh P vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

*Căn cứ: Điểm g, Khoản 2, Điều 173; Điểm r, s Khoản 1, Điều 51; Điểm g, Khoản 1, Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Cao Tiến D.

*Căn cứ: Khoản 1, Điều 173; Điểm r, s Khoản 1, Điều 51; Điểm g Khoản 1, Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Tiến M *Tuyên bố: Bị cáo Cao Tiến D và bị cáo Nguyễn Tiến M phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

*Xử phạt:

1. Bị cáo Cao Tiến D từ 36 tháng tù đến 42 tháng tù . Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 03/9/2023.

2. Bị cáo Nguyễn Tiến M từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù . Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 04/9/2023.

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

*Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 30 BLTTHS; Khoản 1, Điều 584; Khoản 1, Điều 585; Khoản 1, Điều 586; Điều 587; Khoản 1, Điều 589 Bộ luật dân sự.

- Bà Đỗ Thị V và anh Nguyễn Quang H không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường nên HĐXX không đặt ra giải quyết.

- Buộc bị cáo Cao Tiến D và bị cáo Nguyễn Tiến M phải bồi thường cho ông Nguyễn Khắc V số tiền 3.000.000 đồng(ba triệu đồng) tiền sửa xe, kỷ phần của mỗi bị cáo là 1.500.000 đồng(một triệu năm trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án không thánh toán số tiền trên, thì phải trả lãi suất đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy đinh tại Điều 357 Bộ luật dân sự 2015.

*Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS.

-Tịch thu tiêu huỷ: 01 chiếc Vam phá khoá đã cũ bằng kim loại của bị cáo Cao Tiến D; 01 chiếc cờ lê bằng kim loại cỡ 10 -12, cũ đã qua sử dụng của bị cáo Nguyễn Tiến M; 01 thẻ sim số 0388.756.xxx của Cao Tiến D; 01 thẻ sim số 0366.838.xxx của Nguyễn Tiến M; 01 biển kiểm soát 19Y1-xxxx của bị cáo Cao Tiến D.

- Tịch thu, bán phát mại sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu trắng đã cũ của bị cáo Cao Tiến D; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu trắng đã cũ, điện thoại bật không lên nguồn của bị cáo Nguyễn Tiến M.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Tiến M 01 chiếc Biển kiểm soát 19AF- xxxxx;

- Xác nhận cơ quan CSĐT công an huyện T đã trả lại tài sản cho các chủ sở hữu là hợp pháp: Trả lại cho bà Đỗ Thị V chiếc xe mô tô nhãn hiệu Supper Dream, màu nâu, biển số 19K5-xxxxx; anh Nguyễn Quang H chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, không gắn biển số; ông Nguyễn Khắc V chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh, không gắn biển số; ông Nguyễn Đức T chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh, biển số 19G1-xxxxx.

*Về án phí: Bị cáo Cao Tiến D và bị cáo Nguyễn Tiến M mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và mỗi bị cáo phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự trong vụ án hình sự.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1. Về tố tụng: Đối với những người bị hại vắng mặt. Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có mặt đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án. Xét thấy việc họ vắng mặt nhưng đã có lời khai thể hiện trong hồ sơ và việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292 BLTTHS để tiếp tục xét xử vụ án là phù hợp quy định của pháp luật.

2. Về nội dung vụ án:

[1] Tại phiên tòa cũng như tại cơ quan điều tra các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, thừa nhận nội dung cáo trạng truy tố là đúng, không oan sai; Lời khai nhận của các bị cáo đều thống nhất với nhau, phù hợp với lời khai của người bị hại và phù hợp với vật chứng thu giữ, cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để khẳng định:

Lợi dụng sự sơ hở của chủ tài sản, Cao Tiến D và Nguyễn Tiến M đã cùng nhau thực hiện 03 vụ trộm cắp xe mô tô trên địa bàn 2 huyện L và T của tỉnh P với giá trị tài sản trộm cắp được xác định là 36.000.000 đồng. Cụ thể:

Ngày 27/8/2023, tại khu 9, xã Bản Nguyên, huyện L, tỉnh P, Cao Tiến D và Nguyễn Tiến M đã trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển số 19S1-xxxxx trị giá 13.000.000đ của ông Nguyễn Khắc V;

Ngày 02/9/2023, tại khu 4, xã Xuân Huy, huyện L, tỉnh P, Cao Tiến D và Nguyễn Tiến M đã trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển số 19S1-xxxxx trị giá 12.000.000đ của anh Nguyễn Quang H;

Ngày 03/9/2023 tại khu 9, xã Đồng Trung, huyện T, tỉnh P, Cao Tiến D và Nguyễn Tiến M đã trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Supper Dream, biển số 19K5-xxxxx trị giá 11.000.000đ của bà Đỗ Thị V.

Hành vi của Cao Tiến D và Nguyễn Tiến M đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự.

Bị cáo Nguyễn Tiến M phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Bị cáo Cao Tiến D đã 4 lần bị kết án về tội trộm cắp tài sản trong đó có 2 bản án chưa được xóa án tích, do vậy D phải chịu tình tiết định khung hình phạt làtái phạm nguy hiểm” quy định tại Điểm g, Khoản 2, Điều 173 Bộ luật hình sự.

Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

...

g) Tái phạm nguy hiểm;”

[2] Xét tính chất vụ án: Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự, an ninh xã hội, pháp luật của Nhà nước, xâm phạm đến tài sản của cá nhân, được pháp luật hình sự bảo vệ. Gây hoang mang trong dư luận quần chúng nhân dân, ảnh hưởng rất lớn trong đời sống của cộng đồng dân cư. Các bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật ngăn cấm, bị xã hội lên án nhưng vẫn thực hiện. Mục đích của bị 7 cáo là trộm cắp tài sản của người khác đem bán kiếm tiền để phục vụ nhu cầu cá nhân.Trong một thời gian ngắn các bị cáo đã gây ra liên tiếp các vụ trộm cắp là phương thức đi lại của các gia đình, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Do đó cần phải xử phạt các bị cáo hình phạt nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3] Xét về nhân thân, vai trò, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo thấy rằng:

Về nhân thân: Bị cáo Nguyễn Tiến M có nhân thân tốt; bị cáo Cao Tiến D có nhân thân xấu đã từng nhiều lần bị Tòa án xét xử cùng về tội trộm cắp tài sản. Bị cáo D có 02 Tiền án: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2016/HSST ngày 29/6/2016 của TAND thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái, Cao Tiến D bị xử phạt 2 năm tù về tội Trộm cắp tài sản, phải bồi thường số tiền 17.077.500đ và chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm, 853.000đ tiền án phí dân sự trong vụ án hình sự, bị cáo chưa chấp hành xong phần bồi thường.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2019/HS-ST ngày 14/11/2019 của TAND huyện Thanh Ba, tỉnh P, Cao Tiến D bị xử phạt 3 năm 6 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, buộc D phải bồi thường số tiền 21.000.000đ và chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm, 1.050.000đ tiền án phí dân sự trong vụ án hình sự, bị cáo chưa chấp hành xong phần bồi thường.

Lịch sử bản thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 103/2014/HSST ngày 03/7/2014 của Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, TP Hà Nội, D bị xử phạt 9 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản đã được xóa án tích. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 175/2016/HSST ngày 09/9/2016 của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, D bị xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, tổng hợp hình phạt 2 năm tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2016/HSST của TAND TP Yên Bái, buộc D phải chấp hành hình phạt 3 năm tù, đã được xóa án tích.

Về vai trò:Trong vụ án này, Cao Tiến D thực hiện hành vi phạm tội với vai trò là người khởi xướng, chủ mưu cầm đầu, rủ rê, chuẩn bị công cụ và trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo Nguyễn Tiến M thực hiện hành vi trộm cắp tài sản với vai trò giúp sức tích cực. Đây là vụ án đồng phạm nhưng mang tính giản đơn, bị cáo D phải chịu trách nhiệm hình sự lớn hơn so với bị cáo M.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị D, M đã nhiều lần cùng nhau thực hiện hành vi trộm cắp xe máy và giá trị mỗi chiếc xe máy trong một lần trộm cắp đều đã đến mức xử lý về hình sự nên các bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại Điểm g, Khoản 1, Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, Cao Tiến D và Nguyễn Tiến M đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, ăn năn hối cải và tự khai ra 02 vụ trộm cắp tài sản là xe máy khác trên địa bàn huyện L. Do đó cả hai bị cáo đều được áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội 8 tnh khẩn khai báo, ăn năn hối cải” và “ Người phạm tội tự thú” quy định tại Điểm s, r Khoản 1, Điều 51 BLHS.

[4]Về hình phạt chính: Xét thấy, từ sự phân tích trên, đối chiếu với các quy định của pháp luật, xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5, Điều 173 của Bộ luật hình sự, các bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Theo xác minh của cơ quan điều tra ngoài những tài sản phục vụ sinh hoạt hàng ngày, các bị cáo không có tài sản riêng gì có giá trị nên HĐXX miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi nhận lại tài sản bà Đỗ Thị V và anh Nguyễn Quang H không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường nên HĐXX không đặt ra giải quyết.

Đối với bị hại là ông Nguyễn Khắc V, sau khi nhận lại tài sản ông đề nghị các bị cáo liên đới có trách nhiệm bồi thường số tiền 3.000.000 đồng để khắc phục, sửa chữa chiếc xe về nguyên trạng ban đầu do xe bị tháo yếm, 02 giương chiếc hậu và biển kiểm soát của xe. Các bị cáo đều nhất trí bồi thường, do vậy cần buộc các bị cáo bồi thường khoản tiền trên cho ông Vỹ, kỷ phần của mỗi bị cáo là 1.500.000 đồng(một triệu năm trăm nghìn đồng).

[7] Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng:

- Đối với 01 van phá khoá là công cụ bị cáo D tự chế sử dụng vào mục đích trộm cắp tài sản nên cần tịch thu tiêu huỷ.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu trắng đã cũ, đã qua sử dụng lắp sim số 0388.756.xxx thu giữ của Cao Tiến D; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu trắng đã cũ bên trong lắp sim số 0366.838.xxx thu giữ của Nguyễn Tiến M là phương tiện D dùng để rủ Nguyễn Tiến M đi trộm cắp vì vậy cần tịch thu, bán phát mại để sung ngân sách nhà nước, tiêu hủy thẻ sim do không còn giá trị sử dụng.

- Đối với biển kiểm soát 19Y1-xxxx là BKS của phương tiện không còn lưu thông nên cần tịch thu, tiêu huỷ.

- Đối với biển kiểm soát 19AF – xxxxx Nguyễn Tiến M tháo từ xe máy dưới 50m3 của M để lắp vào phương tiện trộm cắp, chiếc xe của M vẫn được phép lưu thông do đó cần trả lại cho bị cáo.

- Đối với một cờ lê cỡ 10-12 do Nguyễn Tiến M sử dụng để tháo lắp BKS xe máy để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với các tài sản của chủ sở hữu là người bị hại, cơ quan CSĐT đã trả lại là hợp pháp, cần xác nhận; trả lại cho bị hại: bà Đỗ Thị V chiếc xe mô tô nhãn hiệu Supper Dream, màu nâu, biển số 19K5-xxxxx; anh Nguyễn Quang H chiếc 9 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, không gắn biển số; ông Nguyễn Khắc V chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh, không gắn biển số.

-Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh, biển số 19G1- xxxxx của ông Nguyễn Đức T bố đẻ của bị cáo M, khi bị cáo lấy xe đi trộm cắp ông T không biết nên không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo M, cơ quan CSĐT đã trả lại cho ông T là hợp pháp,

[8] Đối với anh Nguyễn Anh Tuấn, ông Nguyễn Đức T khi cho Nguyễn Tiến M mượn xe mô tô, anh Tuấn và ông T không biết M sử dụng xe mô tô để phạm tội; đối với bà Chu Thị T khi cho Cao Tiến D đặt xe mô tô để làm tin, bà T không biết chiếc xe mô tô trên là do D trộm cắp mà có. Vì vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T không đề cập xử lý đối với những người này là phù hợp.

[9] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự trong vụ án hình sự theo quy định của pháp luật. Các bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[10] Các quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố là hợp pháp. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

*Căn cứ: Điểm g, Khoản 2, Điều 173; Điểm r, s Khoản 1, Điều 51; Điểm g, Khoản 1, Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Cao Tiến D.

*Căn cứ: Khoản 1, Điều 173; Điểm r, s Khoản 1, Điều 51; Điểm g, Khoản 1, Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Tiến M.

*Tuyên bố: Bị cáo Cao Tiến D và bị cáo Nguyễn Tiến M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

*Xử phạt:

1. Bị cáo CaoTiến D 36(ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 03/9/2023.

2. Bị cáo Nguyễn Tiến M 15(mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 04/9/2023.

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo Cao Tiến D và bị cáo Nguyễn Tiến M theo quy định tại Khoản 5, Điều 173 BLHS.

*Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 30 BLTTHS; Khoản 1, Điều 584; Khoản 1, Điều 585; Khoản 1, Điều 586; Điều 587; Khoản 1, Điều 589 Bộ luật dân sự.

- Bà Đỗ Thị V và anh Nguyễn Quang H không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường nên HĐXX không đặt ra giải quyết.

- Buộc bị cáo Cao Tiến D và bị cáo Nguyễn Tiến M phải bồi thường cho ông Nguyễn Khắc V số tiền 3.000.000 đồng(ba triệu đồng) tiền sửa xe, kỷ phần của mỗi bị cáo là 1.500.000 đồng(một triệu năm trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án không thánh toán số tiền trên, thì phải trả lãi suất đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy đinh tại Điều 357 Bộ luật dân sự 2015.

*Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng: Căn cứ Điểm a, b Khoản 1; Khoản 2, Điều 47 BLHS; Điểm a, c Khoản 2, Điều 106 BLTTHS.

-Tịch thu tiêu huỷ: 01 chiếc Vam phá khoá đã cũ bằng kim loại của bị cáo Cao Tiến D; 01 chiếc cờ lê bằng kim loại cỡ 10 -12, cũ đã qua sử dụng của bị cáo Nguyễn Tiến M; 01 thẻ sim số 0388.756.xxx của Cao Tiến D; 01 thẻ sim số 0366.838.xxx của Nguyễn Tiến M; 01 biển kiểm soát 19Y1-xxxx của bị cáo Cao Tiến D.

- Tịch thu, bán phát mại sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu trắng đã cũ của bị cáo Cao Tiến D; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu trắng đã cũ, điện thoại bật không lên nguồn của bị cáo Nguyễn Tiến M.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Tiến M 01chiếc Biển kiểm soát xe máy 19AF- xxxxx.

(Vật chứng trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh P đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/01/2024).

- Xác nhận cơ quan CSĐT công an huyện T đã trả lại tài sản cho các chủ sở hữu là hợp pháp: Trả lại cho bà Đỗ Thị V chiếc xe mô tô nhãn hiệu Supper Dream, màu nâu, biển số 19K5-xxxxx; anh Nguyễn Quang H chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, không gắn biển số; ông Nguyễn Khắc V chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh, không gắn biển số; ông Nguyễn Đức T chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh, biển số 19G1-xxxxx.

*Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a, c khoản 1 Điều 23; Khoản 2, Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo Cao Tiến D và bị cáo Nguyễn Tiến M mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và mỗi bị cáo phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự trong vụ án hình sự.

*Quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo Bản án. Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án 11 được niêm yết theo quy định của pháp luật, để yêu cầu TAND tỉnh P xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 07/2024/HS-ST

Số hiệu:07/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Thuỷ - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về