Bản án về tội trộm cắp tài sản số 07/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYN TAM ĐƯỜNG, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 07/2023/HS-ST NGÀY 28/11/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 11 năm 2023 tại Tòa án nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 09/2023/TLST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2023. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2023/QĐXXST-HS ngày 15/11/2023, đối với bị cáo:

Họ và tên: Tạ Ngọc Q; Giới tính: Nam;

Sinh ngày 13/7/1967; Tại: thành phố L, tỉnh Lai Châu;

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ I, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lai Châu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân Tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 07/10; Nghề nghiệp: Tự do; Con ông: Tạ Ngọc H (đã chết); Con bà: Nguyễn Thị T (đã chết); Gia đình bị cáo có 03 chị em; bị cáo là con thứ ba; vợ, con: chưa có; Tiền án: Tại Bản án số 02/HSST ngày 20/01/1994 của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai áp dụng điểm khoản 2 Điều 151, điểm a khoản 2 Điều 132, Điều 41 Bộ luật Hình sự xử phạt Tạ Ngọc Q 09 năm tù về tội "Cướp tài sản của công dân" và tội "Trộm cắp tài sản XHCN". Tại Bản án số 26/2006/HSST ngày 10/5/2006 của Tòa án nhân dân thị xã Lai Châu áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm g, i khoản 1 Điều 48, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự xử phạt Tạ Ngọc Q 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản’. Tại Bản án số 20/2009/HSST ngày 12/02/2009 của Tòa án nhân dân thị xã Lai Châu áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138, điểm p, q khoản 1, khoản 2 Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự xử phạt Tạ Ngọc Q 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tại Bản án số 22/2011/HSST ngày 01/4/2011 của Tòa án nhân dân thị xã Lai Châu áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138, điểm p, q khoản 1, khoản 2 Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự xử phạt Tạ Ngọc Q 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bản án số 16/2013/HSST ngày 28/6/2013 của Tòa án nhân dân huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái, áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138, điểm p khoản 1, 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự xử phạt Tạ Ngọc Q 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bản án số 04/2016/HSST ngày 19/11/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138, điểm p khoản 1, 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự xử phạt Tạ Ngọc Q 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bản án số 11/2020/HSST ngày 30/11/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s, t khoản 1, 2 Điều 51 xử phạt Tạ Ngọc Q 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đến ngày 10/8/2023 chưa được xóa án tích đối với 07 bản án trên; Tiền sự: không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện T từ ngày 11/8/2023 cho đến nay "có mặt".

Bị hại: Bà Nguyễn Kim T1, sinh năm 1975 và ông Nguyễn Thái B, sinh năm 1978; cùng trú tại: Bản M, thị trấn T, huyện T, tỉnh Lai Châu "vắng mặt có lý do".

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Ninh Công T2, sinh năm 1980; trú tại: Bản T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Lai Châu "vắng mặt có lý do".

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tạ Ngọc Q, sinh ngày 13/7/1967, đăng ký hộ khẩu thường trú tại tổ I, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lai Châu. Khoảng 12 giờ 30 phút, ngày 10/8/2023 Tạ Ngọc Q khi đang đi bộ theo hướng từ đường L về đường T thuộc bản Mường Cấu, thị trấn T, huyện T, Q có nhìn thấy một ngôi nhà hai tầng của gia đình anh Nguyễn Thái B, sinh năm 1978 và chị Nguyễn Kim T1, sinh năm 1975, cửa chính đang mở, thấy trong phòng khách không có người nên Q nảy sinh ý định vào nhà để trộm cắp tài sản mang bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Quyết đi thẳng qua phòng khách, đến buồng ngủ có chị Nguyễn Kin T3 đang nằm ngủ, Q nhìn thấy trên bàn trang điểm gần cửa có 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 7 plus màu đen, có ốp lưng màu đỏ trắng, Q cầm chiếc điện thoại này bỏ vào trong túi quần trước bên phải mà Q đang mặc rồi đi ra ngoài. Khi đến khu vực giường dưới gầm cầu thang, Q nhìn thấy anh B đang ngủ, nhìn thấy trên bàn máy tính cạnh giường có 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung Galaxy A12 màu xanh, có ốp lưng màu vàng ghi, Q cầm điện thoại này và cất vào túi quần trước bên phải mà Q đang mặc rồi đi ra ngoài và Q đi bộ theo hướng từ đường T về chợ cũ thị trấn T, trên đường đi Quyết tháo 02 ốp lưng điện thoại và sim vứt đi, Q không nhớ vị trí đã vứt. Khi đi đến cửa hàng điện thoại của anh Ninh Công T2, sinh năm 1980, tại bản T, thị trấn T để bán 02 điện thoại, Q nói nhặt được 02 điện thoại đã lâu nên muốn bán. Qua trao đổi Ninh Công T2 đã đồng ý mua 02 điện thoại gồm 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 7 plus màu đen và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung Galaxy A12 màu xanh với giá 1.000.000 đồng. Sau khi bán được điện thoại Q tiếp tục đi bộ đến khu vực đường (Q không nhớ vị trí cụ thể) và mua được 01 gói Heroine của một thanh niên không biết tên tuổi với giá 600.000 đồng và Q đã sử dụng hết số Heroine. Sau đó, Q bắt xe khách về thành phố L. Đến ngày 11/8/2023 khi bắt xe sang thành phố L để tìm xe trốn về quê tại tỉnh Nam Định, Tạ Ngọc Q đã bị lực lượng Công an thị trấn T phát hiện, triệu tập về làm việc. Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và giao nộp số tiền còn lại là 200.000 đồng do bán điện thoại mà có.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 16-KL-HDDGTS ngày 11/8/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T kết luận:

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7plus màu đen, mua mới năm 2021 tại thời điểm mất có giá trị 2.200.000 đồng.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung Galaxy A12 màu xanh, mua mới năm 2022 tại thời điểm mất có giá trị 1.500.000 đồng.

- 01 ốp lưng dùng cho điện thoại Iphone 7plus bằng nhựa màu đỏ trắng, có giá trị 10.000 đồng.

- 01 ốp lưng dùng cho điện thoại Sam Sung Galaxy A12 bằng nhựa màu vàng ghi có giá trị là 15.000 đồng.

Tổng giá trị của tài sản tại thời điểm bị mất trộm ngày 10/8/2023 là 3.725.000 đồng (ba triệu bảy trăm hai mươi năm nghìn đồng).

Bản Kết luận giám định số 982/KL-KTHS ngày 29/8/2023 của Phòng K Công an tỉnh L kết luận: số tiền 200.000 đồng gửi đến giám định là tiền thật.

Bản cáo trạng số: 84/CT-VKSTĐ, ngày 09 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu truy tố bị cáo Tạ Ngọc Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về kết luận điều tra và bản cáo trạng nêu trên.

Quá trình điều tra và trong đơn xin xét xử vắng mặt, bị hại Nguyễn Kim Tân và anh Nguyễn Thái B trình bày: Căn cứ đơn xin lại tài sản của bị hại, ngày 16/8/2023 Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 19/QĐ- XLVC trả lại tài sản là điện thoại cho chị Nguyễn Kim T1 và anh Nguyễn Thái B, bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm. Về hình phạt, đề nghị hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Ninh Công T2 có đơn xin xét xử vắng mặt, yêu cầu bị cáo phải trả lại số tiền 1.000.000 đồng.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát nhân huyện T giữ nguyên quan điểm truy tố của mình đồng thời phân tích, đánh giá toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Tạ Ngọc Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Về hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Tạ Ngọc Q từ 03 năm tù đến 04 năm tù tính từ ngày 11/8/2023. Áp dụng khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: số tiền 200.000 đồng (gồm: 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng, số seri AQ19142189; 01 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng, số seri QL17921363; 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng, số seri VT16598683; 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng, số seri ZZ18334305; 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng, số seri TT18975807) là tiền do phạm tội mà có tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7plus màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung Galaxy A12 màu xanh. Căn cứ đơn xin lại tài sản của bị hại, ngày 16/8/2023 Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 19/QĐ-XLVC trả lại tài sản là điện thoại cho chị Nguyễn Kim T1 và anh Nguyễn Thái B là đúng quy định của pháp luật nên không đề cập giải quyết.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Kim T1 và Nguyễn Thái B không yêu cầu phải bồi thường. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Ninh Công T2 yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 1.000.000 đồng, về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST và án phí DSST có giá ngạch theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Tạ Ngọc Q không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân nhân huyện T.

Tại lời nói sau cùng bị cáo Tạ Ngọc Q đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình xét xử và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng câu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội Tại phiên tòa ngày hôm nay cũng như quá trình điều tra bị cáo Tạ Ngọc Q đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ. Như vậy có đủ căn cứ khẳng định: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 10 tháng 8 năm 2023, Tạ Ngọc Q đã vào nhà của chị Nguyễn Kim T1 và anh Nguyễn Thái B trú tại bản Mường Cấu, thị trấn T, huyện T, tỉnh Lai Châu để thực hiện hành vi trộm cắp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7plus màu đen có ốp lưng bằng nhựa màu đỏ trắng của chị T1; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung Galaxy A12 màu xanh, có ốp lưng bằng nhựa màu vàng ghi của anh B, kèm theo 03 sim điện thoại. Tổng giá trị tài sản trộm cắp là 3.725.000 đồng. Mục đích trộm cắp tài sản của Q để bản lấy tiền tiêu sài cá nhân. Bị cáo Tạ Ngọc Q là người có năng lực trách nhiệm hình sự.

Hành vi nêu trên của bị cáo Tạ Ngọc Q là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản hợp pháp của công dân và làm ảnh hưởng tới trật tự, trị an, an toàn xã hội tại địa phương, do vậy cần thiết phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực, nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vì ham hưởng thụ, không chịu lao động sản xuất. Bị cáo với thủ đoạn lợi dụng tài sản không ai trông coi của các bị hại mà thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của gia đình chị Nguyễn Kim T1 và anh Nguyễn Thái B có giá trị là 3.725.000 đồng (ba triệu bảy trăm hai mươi năm nghìn đồng) với mục đích để bán đi lấy tiền tiêu sài nên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn có cơ sở, đúng pháp luật.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo có bố đẻ là ông Tạ Ngọc H được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhất; Bằng khen đã có thành tích xuất sắc trong phong trào phụ lão làm theo lời Bác H1; mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị T được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhì. Hội đồng xét xử xét thấy cần áp điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo, cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên toà đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định. Do đó, hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7plus màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung Galaxy A12 màu xanh. Căn cứ đơn xin lại tài sản của bị hại, ngày 16/8/2023 Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 19/QĐ-XLVC trả lại tài sản là điện thoại cho chị Nguyễn Kim T1 và anh Nguyễn Thái B là đúng quy định của pháp luật nên không đề cập giải quyết.

Đối với số tiền 200.000 đồng (gồm: 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng, số seri AQ19142189; 01 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng, số seri QL17921363; 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng, số seri VL16598683; 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng, số seri zz 18334305; 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng, số seri TL18975807) là tiền do phạm tội mà có tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Kim T1 và Nguyễn Thái B không yêu cầu phải bồi thường. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Ninh Công T2 yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 1.000.000 đồng.

[7] Những vấn đề liên quan:

Đối với Ninh Công T2 là người mua điện thoại do Q đem đến bán. Quá trình điều tra xác định T2 không biết điện thoại do Q trộm cắp mà có, nên cơ quan điều tả không có căn cứ để điều tra, xử lý.

Đối người người thanh niên theo lời khai của Tạ Ngọc Q là người đã mua Heroine cho Q vào ngày 10/8/2023. Do nhân thân, lai lịch không rõ rằng nên không có đủ căn cứ để điều tra, làm rõ và xử lý.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Tạ Ngọc Q, đây là hành vi vi phạm hành chính nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo là phù hợp.

[8] Về án phí: Áp dụng điều 135; 136 Bộ luật tố tụng hình sự điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2, khoản 5 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 48 Bộ luật hình sự; các Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, áp dụng Điều 584, 585, 586 BLTTDS và điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Tạ Ngọc Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Tạ Ngọc Q 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù được tính từ ngày 11/8/2023.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo 3. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: số tiền 200.000 đồng (gồm: 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng, số seri AQ19142189; 01 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng, số seri QT17921363; 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng, số seri VL16598683; 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng, số seri ZZ18334305; 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng, số seri TL18975807).

(Tình trạng vật chng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 15 giờ 00 phút ngày 10/11/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tam Đường với Chi Cục thi hành án dân sự huyện Tam Đường).

4. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Tạ Ngọc Q phải bồi thường cho ông Ninh Công T2 số tiền 1.000.000 đồng (Một triệu đồng).

K từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án không thực hiện nghĩa vụ trả đủ s tiền phải thi hành án, thì còn phải chịu lãi suất đi với s tin chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Điều 357, Điều 468 BLDS năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về án phí: Bị cáo Tạ Ngọc Q phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

6. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án này lên Tòa án cấp trên trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bản án này lên Tòa án cấp trên trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 07/2023/HS-ST

Số hiệu:07/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Đường - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về