Bản án về tội trộm cắp tài sản số 07/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐĂK TÔ, TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 07/2023/HS-ST NGÀY 18/04/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 4 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 05/2023/TLST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Công T; tên gọi khác: Xị; sinh ngày 06/7/1995 tại tỉnh Kon Tum; nơi đăng ký HKTT: Khối 6, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Kon Tum; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Th và bà Huỳnh Thị D; bị cáo có vợ là Phan Thị Thúy H (đã ly hôn), chưa có con; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Năm 2009 đến năm 2011, đi cải tạo tại Trường Giáo dưỡng số 03 thành phố Đà Nẵng; ngày 05/3/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Tu Mơ Rông, tỉnh Kon Tum xử phạt 04 (bốn) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”; ngày 19/7/2013, bị Công an huyện Đăk Tô xử phạt hành chính về hành vi “Cố ý gây thương tích”; năm 2019 bị Công an thị trấn Đăk Tô xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo đã chấp hành xong các bản án, quyết định nêu trên.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đăk Tô từ ngày 12/01/2023 đến nay. Có mặt.

- Bị hại: Cháu Trần Gia H, sinh ngày 10/10/2007. Vắng mặt.

Địa chỉ: Khối 6, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Kon Tum.

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Anh Trần Thanh Th, sinh năm 1963 (là cha của bị hại); địa chỉ: Khối 6, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Kon Tum. Vắng mặt

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Phạm Thị Cẩm G, sinh năm 2003. Vắng mặt.

Địa chỉ: Khối 6, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Kon Tum.

2. Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1984. Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn 6, xã Kon Đào, huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum.

- Người làm chứng: Chị Trần Thị Y, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Khối 5, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Kon Tum. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 06/01/2023, Nguyễn Công T đi tới quán Internet 296 thuộc khối 5, thị trấn Đăk Tô để chơi game. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, Thành đi ra ngoài đường hẻm sát cạnh quán để đi vệ sinh, thì phát hiện có một chiếc xe mô tô nhãn hiệu DAELIMKREA, màu sơn đen – đỏ, BKS 82UA-X của Trần Gia H dựng gần đó không ai trông coi, Thành lén lút dùng tay kéo dây điện của xe ra, nối lại kích điện, đạp nổ xe và điều khiển lên hướng xã Kon Đào, huyện Đăk Tô. Khi đi đến cửa hàng mua, bán xe mô tô Bình Minh (của chị Nguyễn Thị T) thuộc thôn 6, xã Kon Đào thì Thành dừng xe lại vào gọi chị T ra đề nghị bán xe mô tô trên. Thành nói xe mô tô là của mình nhưng bị mất giấy tờ và muốn bán, ban đầu chị T không mua, nhưng do Thành nài nỉ, viết giấy tờ bán xe và đưa Căn cước công dân của mình để làm tin thì chị T đồng ý mua với giá 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng). Số tiền bán xe Thành đã tiêu xài cá nhân hết, đến ngày 12/01/2023 thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đăk Tô ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.

Tại Kết luận định giá tài sản số 01/KL-ĐGTS ngày 13/01/2023 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Đăk Tô xác định: Giá trị xe mô tô nhãn hiệu DAELIMKREA, dung tích 50S, màu sơn đen – đỏ mà Thành trộm cắp trị giá 6.500.000 (sáu triệu, năm trăm nghìn) đồng.

Cáo trạng số 05/CT-VKS ngày 21/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum truy tố bị cáo Nguyễn Công T về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”, áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 09 đến 12 tháng tù.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu gì nên không đề cập.

- Về vật chứng: Đã được Công an huyện Đăk Tô xử lý trả lại cho chủ sở hữu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát, lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan CSĐT Công an huyện Đăk Tô, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Tô, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng có đơn xin vắng mặt, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai tại giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Ngày 06/01/2023, bị cáo Nguyễn Công T đã có hành vi lén lút, lợi dụng sự sơ hở của bị hại Trần Gia H trong việc quản lý tài sản để trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu DAELIMKREA, dung tích 50S, màu sơn đen – đỏ, biển kiểm soát 82UA-X, trị giá 6.500.000 đồng. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã bị đưa đi chấp hành án, đi giáo dưỡng nhưng không lấy đó làm bài học để lao động chân chính mà lười lao động, lại muốn có tiền tiêu xài nên đã thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần phải xử phạt nghiêm khác là cách ly khỏi xã hội một thời gian để bị cáo được cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết tăng nặng: Chiếc xe mô tô bị cáo trộm cắp do cháu Trần Gia H đang quản lý, sử dụng. Cháu Huy sinh ngày 10/10/2007, chưa đủ 16 tuổi. Xét thấy, khách thể bị xâm phạm trong vụ án này là quyền sở hữu tài sản không phải là quyền nhân thân. Vì vậy, áp dụng tinh thần tại mục 2, Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán và mục 26, phần I giải đáp số 16/1999/KHXX ngày 01/02/1999 của Tòa án nhân dân tối cao, nguyên tắc có lợi cho bị cáo, hội đồng xét xử không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội đối với người dưới 16 tuổi đối với bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại; chị Phạm Thị Cẩm G là chủ xe không có yêu cầu gì; chị Nguyễn Thị T cũng không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền 2.000.000 đồng đã mua xe nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về vật chứng:

Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô mà bị cáo trộm cắp cho cháu Trần Gia H. Hội đồng xét xử xét thấy phù hợp nên không xem xét.

[8] Đối với hành vi mua xe chị Nguyễn Thị T: Chị T không biết chiếc xe mô tô mà bị cáo bán là tài sản do phạm tội mà có nên không có cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Công T (Tên gọi khác: Xị) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Bị cáo Nguyễn Công T 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (12/01/2023).

2. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Công T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (18/4/2023); bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc khi bản án được tống đạt hợp lệ. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

30
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 07/2023/HS-ST

Số hiệu:07/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Tô - Kon Tum
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về