Bản án về tội trộm cắp tài sản số 07/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 07/2023/HS-ST NGÀY 16/01/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16/01/2023 tại điểm cầu trung tâm là Phòng xử án - Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo và điểm cầu thành phần là Cơ sở giam giữ Công an huyện Ea H’Leo, Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo mở phiên toà xét xử công khai trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 90/2022/TLST-HS ngày 14/12/2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2023/QĐST-HS ngày 03/01/2023 đối với bị cáo:

Bị cáo tham gia tố tụng tại điểm cầu thành phần, họ và tên: Lâm Văn L; sinh năm 1972; tại: Tỉnh Cao Bằng; nơi đăng ký NKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn 8, xã E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; giới tính: Nam; dân tộc: Tày; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lâm Văn S (đã chết) và bà Hoàng Thị Th (đã chết); tiền án: Tại Bản án số 54/1996/HSST ngày 14/11/1996 của Tòa án nhân dân huyện H, xử phạt 09 tháng tù, về tội Trộm cắp tài sản. Tại Bản án số 312/1999/HSST ngày 21/9/1999 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xử phạt 04 năm tù, về tội Trộm cắp tài sản. Tại Bản án số 51/2003/HSST ngày 20/11/2003 của Tòa án nhân dân huyện H, xử phạt 03 năm tù, về tội Trộm cắp tài sản. Tại Bản án số 43/2009/HSST ngày 12/3/2009 của Tòa án nhân dân huyện H, xử phạt 03 năm tù, về tội Trộm cắp tài sản. Tại Bản án số 44/2012/HSST ngày 15/5/2012 của Tòa án nhân dân huyện H, xử phạt 02 năm 06 tháng tù, về tội Trộm cắp tài sản. Tại Bản án số 121/2015/HSST ngày 20/11/2015 của Tòa án nhân dân huyện H, xử phạt 03 năm tù, về tội Trộm cắp tài sản. Tại Bản án số 41/2019/HSST ngày 04/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện H, xử phạt 03 năm 03 tháng tù, về tội Trộm cắp tài sản. Ngày 25/5/2022, bị cáo chấp hành xong hình phạt, chưa được xóa án tích; tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/11/2022, bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người tham gia tố tụng tại điểm cầu trung tâm:

Bị hại: Anh Vi Văn H, sinh năm 1992. Nơi cư trú: Thôn b, xã E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk. Vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Hà Văn Ng, sinh năm 1982. Nơi cư trú: Thôn 4, xã C, huyện H, tỉnh Đăk Lăk. Vắng mặt.

Người chứng kiến: Anh Hoàng Văn X, sinh năm 1994. Nơi cư trú: Thôn b, xã E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk. Vắng mặt.

Người tham gia tham gia tố tụng khác tại điểm cầu thành phần:

Cán bộ, chiến sỹ thuộc cơ sở giam giữ và cảnh sát hỗ trợ tư pháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Lâm Văn L có 07 tiền án về tội trộm cắp tài sản, vừa ra tù, không có việc làm và nghiện ma túy. Vào khoảng 17 giờ ngày 16/11/2022, Lâm Văn L điều khiển xe mô tô không biển kiểm soát đến khu vực Thôn B, xã E, huyện H để tìm bắt trộm chó bán lấy tiền tiêu xài. Khi đến khu vực trồng cây cao su thuộc Thôn B, xã E, huyện H, L phát hiện nhà anh Vi Văn H, sinh năm 1992, trú tại Thôn B, xã E, huyện H có nuôi chó. Lúc này, L vứt 02 cục bả chó (L mua trước đó của một người đàn ông không rõ nhân thân lại lịch tại chợ Km 92, thuộc xã R) ở lô trồng cây cao su gần nhà anh H để cho chó ăn. Sau khi vứt 02 cục bả chó thì L thấy một con chó màu đen lại ăn bả chó và chết nên L bỏ con chó vào trong bao xác rắn màu trắng (L mang đi từ trước), rồi điều khiển xe mô tô chở chó đi đến quán Thịt Cầy 36 thuộc Thôn B, xã E, huyện H, để bán lấy tiền. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, khi L đến trước quán Thịt Cầy 36 thì bị anh H cùng Công an xã E phát hiện bắt quả tang.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 765/KL-HĐĐGTS ngày 21/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện H, kết luận: 01 con chó, loại chó cỏ màu đen, trọng lượng 09 kg, trị giá 900.000 đồng.

Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave không có biển kiểm soát; 01 bao xác rắn và 01 con chó nặng 09 kg.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung tại bản cáo trạng số 01/CT- VKS, ngày 12/12/2022 truy tố bị cáo Lâm Văn L về “Tội trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lâm Văn L từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra xác định xe mô tô nhãn hiệu Wave không có biển kiểm soát mà bị cáo Lâm Văn L sử dụng để đi trộm cắp tài sản là của anh Hà Văn Ng bị mất vào tháng 5 năm 2022 tại Thôn 4, xã C, huyện H. Lâm Văn L đã mua lại xe mô tô trên từ một người đàn ông tên D không rõ nhân thân lai lịch. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã ra Quyết định xử lý vật chứng giao trả xe mô tô nhãn hiệu Wave không biển kiểm soát cho anh Hà Văn Ng và giao trả 01 con chó màu đen nặng 09 kg đã chết cho anh Vi Văn H là các chủ sở hữu hợp pháp.

Đối với 01 bao xác rắn màu trắng mà bị cáo Lâm Văn L sử dụng làm công cụ bắt trộm chó, hiện không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, anh Vi Văn H yêu cầu bị cáo Lâm Văn L phải bồi thường thiệt hại là 900.000 đồng, bị cáo Lâm Văn L chưa bồi thường cho người bị hại.

Bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát và không tranh luận gì với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo biết được việc làm của bị cáo là sai trái, bị cáo xin Hội đồng xét xử xử cho bị cáo mức án thấp nhất để bị cáo sớm trở về làm người công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Quá trình điều tra, tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2]. Về nội dung: Khoảng 17 giờ, ngày 16 tháng 11 năm 2022, Lâm Văn L đã có hành vi trộm cắp 01 con chó của anh Vi Văn H, khi L chở con chó đi bán thì bị anh H phát hiện báo cho Công an xã E bắt được L cùng con chó có trọng lượng là 09kg, được xác định có giá trị là 900.000 đồng.

Mặc dù giá trị con chó giá trị dưới 2.000.000 đồng, nhưng bị cáo Lâm Văn L đã bị kết án về tội này chưa được xóa án tích mà bị cáo lại tiếp tục vi phạm, nên hành vi này của bị cáo đã cấu thành “Tội trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đầy đủ nhận thức để biết được việc làm của mình là vi phạm pháp luật. Thế nhưng do động cơ tham lam, tư lợi, muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do đó, quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện H đối với bị cáo Lâm Văn L về “Tội trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tại Điều luật này quy định như sau:

1. “Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

...

b, Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội được quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

...” Xét thấy, bị cáo đã từng bị xử phạt tù về Tội trộm cắp tài sản, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà tiếp tục phạm tội. Do đó, cần áp dụng đối với bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nhằm trừng trị, đồng thời cải tạo, giáo dục bị cáo thành người có ý thức chấp hành pháp luật. Ngoài ra, còn có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiêm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo; tài sản trộm cắp có giá trị không lớn và đã hoàn trả cho chủ sở hữu; bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số, nên nhận thức pháp luật còn có phần hạn chế. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự mà Hội đồng xét xử cần cân nhắc, xem xét.

Xét mức hình phạt mà đại diện viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo có phần nghiêm khắc, nên cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo.

[3]. Về xử lý vật chứng: Cần chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo đã giao trả xe mô tô nhãn hiệu Wave không biển kiểm soát cho anh Hà Văn Ng và giao trả 01 con chó màu đen nặng 09 kg đã chết cho anh Vi Văn H là các chủ sở hữu hợp pháp.

Cần tịch thu tiêu hủy 01 bao xác rắn màu trắng mà bị cáo Lâm Văn L sử dụng làm công cụ bắt trộm chó, hiện không còn giá trị sử dụng.

[4]. Về trách nhiệm dân sự: Sau khi nhận lại tài sản, nhưng con chó đã chết, nên cần buộc bị cáo Lâm Văn L bồi thường cho anh Vi Văn H số tiền 900.000 đồng.

[5]. Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

-Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Lâm Văn L phạm “Tội trộm cắp tài sản”.

-Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lâm Văn L 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 17/11/2022.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo đã giao trả xe mô tô nhãn hiệu Wave không biển kiểm soát cho anh Hà Văn Ng và giao trả 01 con chó màu đen nặng 09 kg đã chết cho anh Vi Văn H là các chủ sở hữu hợp pháp.

Tịch thu tiêu hủy 01 bao xác rắn màu trắng không còn giá trị sử dụng.

(Vật chứng được mô tả tại biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 15/12/2022 giữa Công an huyện Ea H’Leo và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ea H’Leo).

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 589 Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo Lâm Văn L bồi thường cho anh Vi Văn H số tiền 900.000 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Về án phí: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lâm Văn L phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào khoản 1 Điều 331; khoản 1 Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 07/2023/HS-ST

Số hiệu:07/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về