Bản án về tội trộm cắp tài sản số 07/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI BÌNH, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 07/2022/HS-ST NGÀY 02/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thới Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình S thụ lý số: 53/2021/HSST ngày 28 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02, 02a/2022/QĐXXST-HS cùng ngày 10 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:

Lê Hoàng S, sinh năm 1993 tại Cà Mau; nơi cư trú: Ấp P, xã Trí Lực, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn K và bà Lê Kim L; vợ Lê Huyền T và có 01 người con; tiền sự: Không; tiền án: Có 01 tiền án: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 144/2019/HS-ST ngày 07/8/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau và bản án hình sự phúc thẩm số 144/2019/HSPT ngày 15/10/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xử phạt 02 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chấp hành xong hình phạt ngày 13/02/2021, đã thi hành xong phần án phí sơ thẩm và phúc thẩm; bị cáo bị tạm giữ ngày 17/9/2021, chuyển sang tạm giam từ ngày 23/9/2021 đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Anh Hữu D, sinh năm 1994, địa chỉ: Ấp 7, xã T, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau, vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Chị Lê Thị Kiều N, sinh năm 1990, địa chỉ: Ấp P, xã Trí Lực, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau, vắng mặt.

- Anh Hữu Văn N, địa chỉ: Ấp 7, xã T, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau, vắng mặt.

- Chị Hồng Thị Cẩm T, địa chỉ: Ấp T, xã Hòa Thành, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 14/9/2021, anh Hữu D điều khiển xe mô tô loại Exciter màu trắng, xanh biển số 69D1-113.06 đến tiệm sửa xe Hoàng A của anh Hữu Hoàng A, địa chỉ: Ấp 7, xã T, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau để bơm hơi nhưng tiệm sửa xe đóng cửa. Anh D đậu xe trước cửa tiệm, khóa xe lại và đi về nhà. Sau đó, anh Di liên hệ với anh Hoàng A, qua trao đổi thì anh Hoàng A xác định tại cửa tiệm có gắn camera nên anh D để xe tại cửa tiệm, khi nào anh Hoàng A đến thì sửa xe. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, Lê Hoàng S đang ở nhà anh Hữu N thì nhận được điện thoại của bạn là Võ Thị Thu T rủ S ra Cà Mau chơi, S đồng ý. S đi bộ đến Cầu Số 6 đón xe ôm, trên đường đi ngang qua tiệm sửa xe Hoàng A, S phát hiện xe mô tô của anh D đậu trước cửa tiệm, không ai trông coi nên nảy sinh ý định lấy trộm chiếc xe để bán lấy tiền tiêu xài. S đi đến mở khóa xe nhưng không được. Sau đó S lấy một bánh xích (nhông xe) của tiệm sửa xe đóng vào chìa khóa xe thì mở được khóa, S dẫn xe ra lộ nổ máy và điều khiển xe đến nhà chị T tại phường 6, thành phố Cà Mau. Đến 22 giờ 30 phút cùng ngày anh Hoàng A kiểm tra camera thì phát hiện mất chiếc xe của anh D nên báo cho anh D biết và tổ chức truy tìm nhưng không thấy nên trình báo Công an xã Tân Lộc.

Sáng ngày 15/9/2021 S lấy băng keo dán chữ số 6 tại biển số xe thành chữ số 8 và dùng xe làm phương tiện đi lại, đồng thời tìm người để bán lại nhưng chưa tìm được. Cùng ngày, S nhận được tin nhắn của anh Hữu Văn N yêu cầu S trả xe lại cho anh D, anh N nói có camera quay lại. Sợ bị phát hiện nên ngày 17/9/2021 S nhờ chị Hồng Thị Cẩm T điều khiển xe đến cầu Số 4, xã T, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau trả xe cho anh D, chị T đồng ý.

Khoảng 10 giờ cùng ngày chị T điều khiển xe của anh D đến Cầu 4 để trả xe, anh N cho T 500.000 đồng để đón xe về Cà Mau, T báo cho S hay đã trả xe cho anh D. Khoảng 17 giờ 40 phút ngày 17/9/2021 S đến Công an huyện Thới Bình đầu thú về hành vi của mình.

Tại kết luận định giá tài sản số 17/KL-HĐĐGTS ngày 21/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thới Bình xác định chiếc xe mô tô loại Exciter màu trắng, xanh biển số 69D1-113.06 giá trị còn lại là 20 triệu đồng.

Vật chứng của vụ án:

Xe mô tô loại Exciter màu trắng, xanh biển số 69D1-113.06 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thới Bình đã trả lại cho anh D. Các giấy tờ thu giữ trên người S gồm: 01 giấy chứng minh nhân dân số 381487845, tên Nguyễn Cu Đil A;

01 giấy phép lái xe hạng A1, số AH 570805, tên Lê Thế N; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 020280, tên Triệu Thanh H; 01 giấy phép lái xe hạng A1, số AM 976567, tên Triệu Thanh H; 01 Thẻ bảo hiểm y tế tên Triệu Thanh H;

01 giấy chứng minh nhân dân số 380727642 tên Trương Văn N: Đã trả lại cho chủ sở hữu. Đối với 01 USB trích xuất dữ liệu camera hình ảnh S lấy trộm xe của anh D đã đánh bút lục của Cơ quan Cảnh sát điều tra, lưu trong hồ sơ vụ án.

Các vật chứng còn lại gồm: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu trắng xanh, số Imei 356944094984746, sim số mạng Vinaphone số sê ri 72798; 01 áo khoát tay dài, màu xanh đen, loại vải dù, phía trước có ghi hàng chữ Vlieger; 01 cái quần vải màu đen, quần dài, bị bung chỉ ở phần đáy quần và dưới dây kéo; 01 nón bảo hiểm màu đen (loại nón kết), trên nón có ghi dòng chữ Fashion Demen; 01 đôi dép có ghi dòng chữ Bitis Formen, loại dép quai kẹp, hiện chi cục thi hành án dân S huyện Thới Bình đang quản lý.

Trách nhiệm dân sự: Anh D đã nhận lại chiếc xe, yêu cầu bồi thường ổ khóa bị hư hỏng số tiền 250.000 đồng, chị N là chị ruột của S đã bồi thường cho anh D nên anh D không yêu cầu gì thêm về phần dân sự.

Tại bản cáo trạng số 04/CT-VKS ngày 27 tháng 12 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Bình truy tố bị cáo Lê Hoàng S về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình Sự.

Tại phiên toà hôm nay:

- Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã được trình bày nêu trên và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt. Đối với các tài sản thu giữ của bị cáo gồm: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu trắng xanh, số Imei 356944094984746, sim số mạng Vinaphone số sê ri 72798, bị cáo yêu cầu được nhận lại. Các đồ vật còn lại gồm: 01 áo khoát tay dài, màu xanh đen, loại vải dù, phía trước có ghi hàng chữ Vlieger; 01 cái quần vải màu đen, quần dài, bị bung chỉ ở phần đáy quần và dưới dây kéo; 01 nón bảo hiểm màu đen (loại nón kết), trên nón có ghi dòng chữ Fashion Demen; 01 đôi dép có ghi dòng chữ Bitis Formen, loại dép quai kẹp, bị cáo không yêu cầu được nhận lại.

- Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên toà: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Lê Hoàng S phạm tội “Trộm cắp tài sản”, phạt bị cáo 09 tháng đến 01 năm 03 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự: bị hại không yêu cầu bồi thường thêm nên không đề nghị xem xét. Về các tài sản thu giữ của bị cáo, đề nghị trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu trắng xanh, số Imei 356944094984746, sim số mạng Vinaphone số sê ri 72798. Đối với các tài sản còn lại gồm 01 áo khoát tay dài, màu xanh đen, loại vải dù, phía trước có ghi hàng chữ Vlieger; 01 cái quần vải màu đen, quần dài, bị bung chỉ ở phần đáy quần và dưới dây kéo; 01 nón bảo hiểm màu đen (loại nón kết), trên nón có ghi dòng chữ Fashion Demen; 01 đôi dép có ghi dòng chữ Bitis Formen, loại dép quai kẹp, đề nghị tịch thu tiêu hủy. Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố và tại phiên tòa không ai có ý kiến hoặc khiếu nại. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, các lời khai của người bị hại, người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, vật chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 14/9/2021 tại ấp 7, xã T, huyện Thới Bình, bị cáo S đã thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe mô tô hiệu loại Exciter màu trắng, xanh biển số 69D1-113.06 của anh Hữu D có giá trị là 20 triệu đồng. Với hành vi và giá trị tài sản nêu trên thì Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Bình truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, chỉ vì động cơ vụ lợi, muốn có tiền tiêu xài mà không bằng công sức do mình tạo ra. Hành vi của bị cáo trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự xã hội của địa phương, tạo nên tâm lý hoang mang, lo sợ, gây nên sự bức xúc, bất bình trong dư luận quần chúng nhân dân. Bị cáo nhận thức được rằng việc xâm phạm đến tài sản của người khác sẽ bị pháp luật trừng trị nhưng vẫn cố ý thực hiện. Mặc khác, bị cáo đã từng bị kết án 02 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chấp hành xong hình phạt ngày 13/02/2021, đến ngày 14/9/2021 lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Vì vậy, việc xử lý nghiêm khắc đối với bị cáo là cần thiết, nhằm đấu tranh phòng ngừa chung.

[3] Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo như sau: Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải; Tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho phía bị hại; Bị cáo đầu thú; Bị cáo có trình độ học vấn thấp nhận thức pháp luật có phần hạn chế nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm b, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo bị kết án 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chưa được xóa án tích, nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng là tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình S và đặc điểm nhân thân của bị cáo, xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Bình tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nữa mới đủ sức cải tạo bị cáo trở thành người tốt cũng như phòng ngừa chung.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại xe và số tiền 250.000 đồng của chị N là chị ruột bị cáo bồi thường ổ khóa xe bị hư hỏng, không yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

Đối với số tiền 250.000 đồng chị N khắc phục cho anh D thay cho bị cáo và số tiền 500.000 đồng anh N cho chị T, quá trình điều tra không có ai yêu cầu gì, tại phiên tòa chị N, anh N, chị T vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về vật chứng: Việc Cơ quan Cảnh sát điều tra trả lại cho bị hại chiếc xe mô tô loại Exciter màu trắng, xanh biển số 69D1-113.06 và trả lại cho chủ sở hữu các giấy tờ thu giữ trên người S gồm: 01 giấy chứng minh nhân dân số 381487845, tên Nguyễn Cu Đil A; 01 giấy phép lái xe hạng A1, số AH 570805, tên Lê Thế N;

01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 020280, tên Triệu Thanh H; 01 giấy phép lái xe hạng A1, số AM 976567, tên Triệu Thanh H; 01 Thẻ bảo hiểm y tế tên Triệu Thanh H; 01 giấy chứng minh nhân dân số 380727642 tên Trương Văn N là phù hợp.

Đối với các tài sản thu giữ của bị cáo gồm: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu trắng xanh, số Imei 356944094984746, sim số mạng Vinaphone số sê ri 72798, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, bị cáo có yêu cầu nhận lại nên cần trả lại cho bị cáo. Các tài sản còn lại gồm: 01 áo khoát tay dài, màu xanh đen, loại vải dù, phía trước có ghi hàng chữ Vlieger; 01 cái quần vải màu đen, quần dài, bị bung chỉ ở phần đáy quần và dưới dây kéo; 01 nón bảo hiểm màu đen (loại nón kết), trên nón có ghi dòng chữ Fashion Demen; 01 đôi dép có ghi dòng chữ Bitis Formen, loại dép quai kẹp, bị cáo không có yêu cầu được nhận lại, xét thấy không còn giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy. Các tài sản này hiện chi cục thi hành án dân sự huyện Thới Bình đang quản lý.

[7] Về án phí hình sự: Bị cáo phải nộp theo quy định.

[8] Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại vụ án được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Về trách nhiệm hình sự:

- Tuyên bố bị cáo Lê Hoàng S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Phạt bị cáo S 01 (một) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 17/9/2021.

2. Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

3. Về xử lý vật chứng:

- Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu trắng xanh, số Imei 356944094984746, sim số mạng Vinaphone số sê ri 72798.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 áo khoát tay dài, màu xanh đen, loại vải dù, phía trước có ghi hàng chữ Vlieger; 01 cái quần vải màu đen, quần dài, bị bung chỉ ở phần đáy quần và dưới dây kéo; 01 nón bảo hiểm màu đen (loại nón kết), trên nón có ghi dòng chữ Fashion Demen; 01 đôi dép có ghi dòng chữ Bitis Formen, loại dép quai kẹp.

Các vật chứng hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Bình quản lý.

4. Về nghĩa vụ chịu án phí, quyền kháng cáo:

Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 07/2022/HS-ST

Số hiệu:07/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thới Bình - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về