Bản án về tội trộm cắp tài sản số 07/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG KHÁNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 07/2020/HS-ST NGÀY 17/01/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17/01/2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 161/2019/HSST ngày 31/12/2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2020/QĐXX ST-HS ngày 06/01/2020 đối với bị cáo:

LÊ ĐÌNH N, Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam. Sinh năm: 1985; Nơi sinh: Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi cư trú: Khu phố 4, Phường X, thành phố K, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: Lớp 9/12. Con ông Lê Đình N sinh năm 1953 và bà Phạm Thị X, sinh năm 1958. Họ tên vợ: Lê Thị L, sinh năm 1985. Họ tên con: Lê Thị Vân A, sinh năm 2006 và Lê Đình Nguyên K, sinh năm 2013. Tiền án: Không. Tiền sự: 01, cụ thể: Ngày 10/6/2019, bị Công an xã Bàu Trâm, thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai xử phạt hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Nhân thân: Ngày 30/6/2015, bị Toà án nhân dân thị xã Long Khánh (nay là thành phố Long Khánh) xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Bị can chấp hành xong hình phạt ngày 08/6/2016.

Bị cáo bị áp dụng bện pháp tạm giam từ ngày 12/11/2019 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Long Khánh. Bị cáo có mặt.

- Bị hại: Nguyễn Thị L, sinh năm 1980. Nơi cư trú: Khu phố 6, phường A, thành phố K, tỉnh Đồng Nai. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Phạm Thị X, sinh năm 1958. Nơi cư trú: Khu phố 4, Phường X, thành phố K, tỉnh Đồng Nai. Có mặt.

- Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị Thanh L1, sinh năm 1991. Nơi cư trú:

Khu phố 3, phường A, thành phố K, tỉnh Đồng Nai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Đình N là người nghiện ma tuý, để có tiền sử dụng ma túy và tiêu xài cá nhân, N đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, cụ thể như sau:

Khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 03/8/2019, Lê Đình N đến tiệm thu mua phế liệu, tại ấp B, xã T, thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai do chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1980, ngụ tại khu phố 6, phường A, thành phố K, tỉnh Đồng Nai làm chủ để bán phế liệu. Trong lúc bán phế liệu, N thấy trên bàn tính tiền có 01 điện thoại di động hiệu Itel P51 nên nảy sinh ý định chiếm đoạt. Lợi dụng lúc chị L không để ý, N lén lút lấy trộm điện thoại bỏ vào túi quần rồi mang đến cửa hàng điện thoại di động KA tại khu phố 3, phường X, thành phố K, tỉnh Đồng Nai bán với giá 600.000 đồng. Số tiền này N tiêu xài cá nhân hết. Khi mua điện thoại trên, cửa hàng điện thoại di động KA không biết tài sản này do N trộm cắp mà có. Sau khi bị mất tài sản, chị L đã trình báo Công an xã T và cung cấp Camera ghi lại hành vi phạm tội của N. Qua kiểm tra Camera Công an xã T xác định đối tượng lấy trộm tài sản của chị L là N nên ngày 17/8/2019, Công an xã B đã mời N lên làm việc. Tại cơ quan Công an, N đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 93 ngày 04/9/2019, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Long Khánh, kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Itel P51, đã qua sử dụng, có giá trị là 1.677.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 136/CT-VKS-HS ngày 30/11/2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Lê Đình N về tội “Trộm cắp tài sản”, được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên Cáo trạng truy tố bị cáo Lê Đình N về tội danh, điều luật áp dụng nói trên và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lê Đình N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm b,h,s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015. Đề nghị HĐXX xử dưới không hình phạt cho bị cáo.

Xử phạt: Bị cáo Lê Đình N từ 03 (ba) tháng đến 05 (năm) tháng tù .

Về dân sự: Gia đình bị cáo đã bồi thường cho chị L số tiền 2.500.000 đồng.

Bị hại không có yêu cầu gì thêm.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo nói sau cùng: Bị cáo nhận thấy được hành vi của mình là sai trái, là vi phạm pháp luật. Bị cáo xin lỗi cha mẹ và xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm về với gia đình.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, lời khai của những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội do mình thực hiện như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, lời khai nhận tội này phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện:

Khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 03 tháng 8 năm 2019, tại tiệm thu mua phế liệu, thuộc ấp B, xã T, thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai, Lê Đình N đã thực hiện hành vi lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu Itel P51, trị giá 1.677.000đ (một triệu sáu trăm bảy mươi bảy nghìn đồng) của chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1980. Mặc dù trị giá tài sản bị cáo Lê Đình N chiếm đoạt dưới hai triệu đồng nhưng do trước đó, vào ngày 10/6/2019 bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” đến ngày 03/8/2019 lại tiếp tục thực hiện hành vi “Trộm cắp tài sản” nên hành vi của bị cáo đã cấu thành tội phạm.

Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Lê Đình N phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại điểm a , khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội:

Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, tài sản hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Bản thân bị cáo là người đã trưởng thành nhưng lười lao động, lại là đối tượng nghiện ma túy, đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu khi quản lý tài sản để thực hiện hành vi phạm tội.

[4] Về tình tiết định khung hình phạt:

Bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, nhưng bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 30/6/2015, bị Toà án nhân dân thị xã Long Khánh (nay là thành phố Long Khánh) xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Ngày 10/6/2019, bị Công an xã T, thành phố K, tỉnh Đồng Nai xử phạt hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Lẽ ra, bị cáo phải lấy đó làm bài học sâu sắc cho bản thân, cố gắng lao động, rèn luyên bản thân trở thành người công dân sống có ích cho gia đình và xã hội, biết tuân thủ pháp luật nhưng bị cáo vẫn chưa tu dưỡng đạo đức, chưa cai nghiện được ma túy, lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, cần có mức án nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ hậu quả hành vi của bị cáo gây ra, nhằm giáo dục bị cáo trở thành công dân sống có ích cho xã hội.

Tuy nhiên, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; bị cáo đã tích cực tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho người bị hại; cha của bị cáo ông Lê Đình N là người có công với cách mạng, được Nhà nước tặng Huân Huy chương. HĐXX xét cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, h s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là căn cứ xem xét cân nhắc giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[6] Về quyết định hình phạt:

Căn cứ tính chất và mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy, cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự xử dưới khung hình phạt đối với bị cáo là đủ nghiêm.

[7] Về trách nhiệm dân sự:

Gia đình bị cáo đã bồi thường cho bị hại số tiền 2.500.000đ (hai triệu năm trăm ngàn đồng). Bị hại không có yêu cầu gì thêm nên hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Đối với bà Phạm Thị X mẹ của bị cáo Lê Đình N là người đã trực tiếp bồi thường số tiền 2.500.000đ (hai triệu năm trăm ngàn đồng) cho người bị hại. Tại phiên Tòa bà X không có yêu cầu gì nên HĐXX không xem xét.

[8] Về vật chứng vụ án: 01 điện thoại di động hiệu Itel P51 màu trắng xám không thu hồi được nên HĐXX không đặt ra giải quyết.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[10] Về quyền kháng cáo, kháng nghị:

Bị cáo, bị hại, người có uyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.

Xét ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ và phù hợp với tình tiết của vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa, nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

1. Tuyên bố bị cáo Lê Đình N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Lê Đình N 05 (năm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 12 tháng 11 năm 2019.

2. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTTQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lê Đình N phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo, kháng nghị bản án: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án. Riêng người bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án. Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

80
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 07/2020/HS-ST

Số hiệu:07/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Khánh - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:17/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về