Bản án về tội trộm cắp tài sản số 06/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHĨA HÀNH, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 06/2023/HS-ST NGÀY 20/12/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 08/2023/TLST-HS, ngày 24 tháng 11 năm 2023; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:

Lê Trung Đ; (Tên gọi khác: Không có), sinh ngày 14 tháng 5 năm 2005; tại huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.

Nơi cư trú: Thôn A, xã N, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Không có; trình độ học vấn: lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Lê Hữu T, sinh năm 1971 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1974; vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 29 tháng 9 năm 2023. Có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Hà Thanh Đ, sinh năm: 1990 – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Quảng Ngãi. Địa chỉ trụ sở chính: Số 63 đường P, phường T, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi. (Có mặt).

(Quyết định số 509/QĐ-TGPL, ngày 10 tháng 10 năm 2023 của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Quảng Ngãi).

- Bị hại: Lê Thanh T, sinh năm: 1999. (Có mặt).

Địa chỉ: Thôn Đ, xã H, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Phạm Thanh T, sinh năm: 2005. (Có mặt).

Địa chỉ: Thôn An Hội Nam 1, xã N, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.

2. Ông Lê Hữu T, sinh năm: 1971. (Có mặt).

Bà Nguyễn Thị L, sinh năm: 1974. (Có mặt).

Cùng địa chỉ: Thôn A, xã N, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 26/9/2023, bị cáo Lê Trung Đ điều khiển xe mô tô biển số 76E1-X hướng từ thành phố Quảng Ngãi đến huyện Nghĩa Hành trên đường Tỉnh lộ 624 để tìm tài sản trộm cắp; bị cáo mang theo ba lô vải bên trong có: 01 búa tay, 02 khóa cờ lê, 02 trục sắt, 01 kìm bấm, 01 tua vít (tournevit). Đến khoảng 00 giờ 20 phút ngày 27/9/2023, bị cáo phát hiện cửa hàng điện di động Thanh T thuộc thôn Đại An Đông 1, xã H, huyện Nghĩa Hành (do anh Lê Thanh T làm chủ) khóa cửa bên ngoài và không có người bên trong; bị cáo sử dụng công cụ mang theo phá hai ổ khóa cửa trước và đột nhập vào bên trong trộm cắp tài sản gồm: 01 điện thoại Iphone 5 màu trắng, 01 điện thoại Iphone 5s màu vàng, 01 điện thoại Samsung A23 màu đen (phía trong ốp lưng có CCCD và thẻ bảo hiểm y tế mang tên Huỳnh Thanh T), 01 điện thoại Nokia bàn phím màu xanh và 01 loa bluetooth model HC7 màu đen, 01 điện thoại Iphone 7plus màu vàng, 01 điện thoại Samsung J7-4G màu vàng, 01 điện thoại Samsung J730F/DS màu đen; 07 xác điện thoại hỏng; 12 vỏ điện thoại di động các loại; 02 màn hình điện thoại APPO, 01 màn hình điện thoại Samsung, 01 màn hình điện thoại iphone 6plus rồi bỏ tất cả vào ba lô, ra ngoài điều khiển xe tẩu thoát. Bị cáo Đ kiểm tra xác định 01 điện thoại Iphone 5S và 01 điện thoại Samsung A23, 01 điện thoại Nokia bàn phím, 01 điện thoại Iphone 5 và 01 loa bluetooth là những tài sản có giá trị sử dụng nên cất vào balo để sử dụng và tìm người để bán. Số tài sản còn lại bị cáo mang bán phế liệu cho anh Phạm Thanh T.

Bản kết luận định giá tài sản số 10/KL-HĐĐGTTHS ngày 29/9/2023 và số 11/KL-HĐĐGTTHS ngày 03/10/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Nghĩa Hành xác định: Tổng giá trị tài sản thiệt hại là 4.711.050 đồng (Bốn triệu bảy trăm mười một nghìn không trăm năm mươi đồng).

Cáo trạng số 31 /CT-VKS-NH, ngày 24 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghĩa Hành truy tố bị cáo Lê Trung Đ về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố trình bày luận tội; giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung Cáo trạng đã công bố; đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Trung Đ về tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo hình phạt tù có thời hạn từ 06 đến 09 tháng.

Không áp dụng hình phạt bổ sung.

Về vấn đề dân sự: Người bị hại anh Lê Thanh T đã nhận lại toàn bộ tài sản và số tiền bồi thường và có đơn không yêu cầu bồi thường.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Phạm Thanh T không yêu cầu bồi thường; ông Lê Hữu T, bà Nguyễn Thị L không yêu cầu gì.

Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo không tranh luận về tội danh và mức hình phạt.

Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng khoản 3 Điều 54 Bộ luật hình sự giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo bằng với khoảng thời gian bị tạm giam và trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa vì đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; đồng thời hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn và đề nghị miễn tiền án phí cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nghĩa Hành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghĩa Hành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng:

Tại cơ quan cảnh sát điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Lê Trung Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự; cố ý xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, ảnh hưởng trật tự - trị an tại địa phương. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội bằng việc lợi dụng đêm khuya vắng người, lén lút dùng dụng cụ chuẩn bị sẵn, phá khoá, vào cửa hàng khi không có người quản lý trông coi chiếm đoạt tài sản của anh Lê Thanh T gồm điện thoại di động các loại và các loại linh kiện điện thoại di động có giá trị là 4.711.050 đồng (Bốn triệu bảy trăm mười một nghìn không trăm năm mươi đồng). Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”; do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghĩa Hành truy tố bị cáo tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 01 Điều 173 của Bộ luật hình sự là đúng người đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng:

Quá trình điều tra, truy tố bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; nên xem đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo có 3 tình tiết giảm nhẹ, trong đó có 2 tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51; không có tình tiết tăng nặng nhưng không có nghề nghiệp ổn định, thường xuyên vắng mặt tại địa phương và không có nơi cư trú rõ ràng; nên buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định với mức án thấp nhất nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ bị cáo sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội là phù hợp Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Trong quá trình điều tra, truy tố xác định:

- Đối với anh Phạm Thanh T (là người mua phế liệu điện tử). Anh T đã mua lại số tài sản (03 điện thoại không khởi động nguồn được, 07 xác điện thoại di động các loại và vỏ, màn hình điện thoại) do bị cáo phạm tội mà có. Tuy nhiên, anh T không biết nguồn gốc số tài sản là do bị cáo trộm cắp, không thỏa thuận, hứa hẹn trước với bị cáo về việc mua tài sản nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Nghĩa Hành không đề cập xử lý là có căn cứ.

- Đối với xe mô tô hiệu SIRIUS, màu đỏ đen, biển kiểm soát 76E1-631.66. Đây là chiếc xe của ông Lê Hữu T, bà Nguyễn Thị L (là cha mẹ ruột của bị cáo Đức). Ông T, bà L hoàn toàn không biết việc bị cáo sử dụng xe để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên ông T, bà L không đồng phạm với bị cáo; Cơ quan CSĐT Công an huyện Nghĩa Hành đã trả lại xe cho ông T, bà L nên không xét.

- Đối với toàn bộ tài sản trộm cắp đã thu hồi được là tài sản của anh Lê Thanh T; Cơ quan CSĐT Công an huyện Nghĩa Hành đã trả lại cho chủ sở hữu theo quy định.

[5] Về dân sự:

Người bị hại anh Lê Thanh T đã nhận lại toàn bộ tài sản không yêu cầu bồi thường nên không xét; người liên quan anh Phạm Thanh T; ông Lê Hữu T và bà Nguyễn Thị L không có yêu cầu bồi thường về dân sự nên không xét.

[6] Về xử lý vật chứng: Theo quy định tại điểm c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy vật chứng không có giá trị sử dụng:

đỏ đen có dòng chữ MEINFA (Đã qua sử dụng).

- 01 mũ bảo hiểm màu đỏ có dòng chữ Liverton; 01 áo khoác màu đen có hoa văn màu nâu (loại dài tay, có mũ); 01 quần jeans đen, có chữ TSC CLASIC WEAR;

Theo biên bản giao nhận vật chứng, ngày 04 tháng 11 năm 2023 giữa Cơ quan Điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nghĩa Hành.

[7] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[8] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa về tội danh, mức hình phạt, về phần dân sự và xử lý vật chứng là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[9] Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ điểm c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng Hình sự;

Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1. Tuyên bố bị cáo Lê Trung Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Lê Trung Đ 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 29 tháng 9 năm 2023 (ngày tạm giữ, tạm giam).

Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy:

- 01 ba lô vải màu đen, có chữ BETU-Trường Đại học kinh tế-Kỹ thuật bình Dương, đã qua sử dụng;

- 01 búa tay có cán gỗ kích thước (33x3x3)cm phần kim loại kích thước (14x5)cm, một đầu nhọn, một đầu chẻ làm đôi; 01 khóa cờ lê 19 dài 22cm; 01 khóa cờ lê 17 dài 20cm; 01 tua vít dài 20cm cán nhựa tròn, màu đỏ đen, đầu kim loại dẹp; 01 thanh kim loại dạng trụ tròn, dài 30cm, một đầu có tán lục giác, đường kính 03cm, một đầu có ren xoay đường kính 1,5cm; 01 thanh kim loại dạng trụ tròn, dài 24cm, một đầu có tán lục giác, đường kính 1,5cm, một đầu có ren xoay đường kính 01cm; 01 kìm bấm dài 17cm, có hai mặt cắt, tay nắm bọc nhựa màu đỏ đen có dòng chữ MEINFA (đã qua sử dụng).

- 01 mũ bảo hiểm màu đỏ có dòng chữ Liverton; 01 áo khoác màu đen có hoa văn màu nâu (oại dài tay, có mũ); 01 quần jeans đen, có chữ TSC CLASIC WEAR;

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 04 tháng 11 năm 2023 giữa Cơ quan Điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nghĩa Hành.

4. Về án phí:

Bị cáo Lê Trung Đ được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 06/2023/HS-ST

Số hiệu:06/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghĩa Hành - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về