TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN U MINH, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 06/2023/HS-ST NGÀY 10/01/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 10 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện U Minh, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 36/2022/TLST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 12 năm 2022, đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Trần Văn U, (Tên gọi khác: C), sinh năm 1993. Nơi sinh: Tỉnh Cà Mau. Nơi cư trú: Tổ 1, ấp M, xã L, huyện P, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; cha: Trần Thanh H, sinh năm 1945, mẹ: Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1955; vợ: Trương Thị N, sinh năm 1995 (đã ly hôn); con: 01 người, sinh năm 2010; tiền sự: Không.
Tiền án: 01 tiền án, ngày 17/01/2020, bị Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước xử phạt 09 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Bản án hình sự sơ thẩm số: 03/2020/HS-ST, chấp hành xong ngày 26/5/2020, chưa được xóa án tích.
Nhân thân: Ngày 29/10/2012, bị Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xử phạt 05 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 02/08/2022, bị Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo chấp hành án phạt tù tại Trại Giam K1 Cái Tàu thuộc Bộ Công an từ ngày 24/10/2022 cho đến nay (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).
2. Họ và tên: Cao Thị Kiều H, sinh năm 1997. Nơi sinh: Huyện B, tỉnh Cà Mau. Nơi cư trú: Khóm 3, thị trấn B, huyện B, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Mua bán; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; cha: Cao Văn H, sinh năm 1969 (đã chết), mẹ: Nguyễn Thị M, sinh năm 1970; Chồng: Võ Minh T (đã ly hôn); con: 01 người sinh năm 2014; tiền án: Không; tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 02/8/2022, bị Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo chấp hành án phạt tù tại Trại Giam K1 Cái Tàu thuộc Bộ Công an từ ngày 24/10/2022 cho đến nay (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).
- Bị hại: Anh Lư Minh V, sinh năm 1988 (vắng mặt) Nơi cư trú: Ấp 8, xã H, huyện M, tỉnh Cà Mau.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào sáng ngày 10/3/2022, Trần Văn U điều khiển xe máy hiệu Wave chở theo H đi đến nhà ông Nguyễn Văn P để chơi, đến trưa cùng ngày, cả hai ra về. Trên đường về, khi đi đến tuyến lộ kênh 35 thuộc ấp 13, xã P, huyện M thì U và H nhìn thấy 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu đỏ – đen, biển kiểm soát 69H1-187… của anh Lư Minh V, đang đậu phía bên trái đường không có người trông coi nên cả hai nảy sinh ý định lấy trộm xe về sử dụng. Lúc này, U dừng xe lại kêu H ngồi trên xe để cảnh giới thì H đồng ý, còn U đi đến vị trí xe Exciter nêu trên, sử dụng cây đoản lục giác đã chuẩn bị sẵn từ trước bẻ khóa xe nhưng khi đang thực hiện thì cây đoản bị gãy làm hỏng ổ khóa xe nên U không mở khóa để khởi động xe được. Sau đó, U vứt cây đoản xuống sông, đồng thời dẫn chiếc xe mô tô đi một đoạn khoảng 10-15 mét rồi bứt dây điện của xe câu lại với nhau thì khởi động được xe.
Sau khi trộm xe xong thì H và U mỗi người điều khiển một chiếc xe chạy về huyện B, tỉnh Cà Mau. H chạy trước đi thẳng về nhà mẹ ruột, U tháo biển số xe vừa trộm vứt xuống sông và mua biển số mới gắn vào xe sử dụng. Sau đó, U điều khiển xe đến tiệm sửa xe để thay ổ khóa xe và dàn áo xe mới nhằm tránh bị phát hiện. Đến ngày 14/3/2022, U điều khiển xe Exciter đã trộm được nêu trên chở theo H đến huyện T, tỉnh Cà Mau để tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp xe mô tô thì bị phát hiện và bắt giữ.
Bản Kết luận định giá tài sản số 11, ngày 11/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện M kết luận: 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, đã qua sử dụng, tại thời điểm ngày 10/3/2022 trị giá 18.000.000 đồng.
Vật chứng của vụ án: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu xám – đen, số khung RLCUG0610GY351…, số máy G3D4E369… đã qua sử dụng; 01 ốp đầu đèn, 01 mặt nạ, 02 bửng hông xe Exciter màu đỏ bằng nhựa.
Tại Bản cáo trạng số: 33/CT-VKS ngày 07/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện U Minh, tỉnh Cà Mau truy tố các bị cáo Trần Văn U và Cao Thị Kiều H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát bảo vệ toàn bộ nội dung cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn U từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Cao Thị Kiều H từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.
Bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, đã ăn năn hối cải nên xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, Điều tra viên và Kiểm sát viên thực hiện hành vi tố tụng và ban hành các quyết định, văn bản tố tụng đúng theo quy định pháp luật nên các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án là hợp pháp. Tại phiên tòa, các bị cáo đều khẳng định trong quá trình điều tra, truy tố các bị cáo tự nguyện khai báo; những người tiến hành tố tụng không ép cung, mớm cung, bức cung đối với các bị cáo.
[2] Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo Trần Văn U và Cao Thị Kiều H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của các bị cáo đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện U Minh đã truy tố. Xét lời khai của các bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của chính các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có cơ sở xác định: Vào ngày 10/3/2022, Trần Văn U và Cao Thị Kiều H lợi dụng sự sơ hở trong quản lý tài sản của bị hại, đã thực hiện hành vi lén lU lấy trộm 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter của bị hại Lư Minh V. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt 18.000.000 đồng là thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.
[3] Như vậy, đã có đầy đủ cơ sở kết luận các bị cáo Trần Văn U và Cao Thị Kiều H phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[4] Xét hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm trái pháp luật đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất an ninh trật tự xã hội, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Bản thân các bị cáo là người có đầy đủ khả năng nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật và phải chịu chế tài hình sự nghiêm khắc nhưng vì hám lợi, lười lao động và để có tiền phục vụ cho nhu cầu chi xài cá nhân nên các bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của bị hại trái pháp luật và bất chấp chế tài hình sự nghiêm khắc để thực hiện hành vi phạm tội nhằm thu lợi bất chính cho bản thân. Vì vậy, cần phải áp dụng mức hình phạt thật nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo và cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để có điều kiện cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội và bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật; đồng thời nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm xảy ra.
[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng để giảm một phần hình phạt: Các bị cáo Trần Văn U và Cao Thị Kiều H đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và quá trình điều tra trong vụ án khác đã đầu thú là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Tình tiết tăng nặng: Bị cáo Trần Văn U có 01 tiền án về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Bản án hình sự sơ thẩm số: 03/2020/HS-ST ngày 17/01/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước xử phạt 09 tháng tù, chấp hành xong ngày 26/5/2020, chưa được xóa án tích. Cho nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[6] Xét tính chất và mức độ cũng như nguyên nhân và điều kiện phạm tội cùng với những tình tiết giảm nhẹ được áp dụng cho các bị cáo: Các bị cáo cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội, vai trò đồng phạm của các bị cáo giản đơn, không có sự cấu kết chặt chẽ. Tuy nhiên, bị cáo Trần Văn U là người trực tiếp thực hành tích cực hơn bị cáo Hạ. Bị cáo U và H đều có nhân thân xấu, cụ thể là ngày 02/8/2022, bị Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau xử phạt về tội xâm phạm sở hữu về tài sản mà vẫn tiếp tục phạm tội; riêng bị cáo U còn bị Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xử phạt 05 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” nên cần cân nhắc khi áp dụng mức hình phạt đối với các bị cáo.
[7] Xử lý vật chứng vụ án: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu xám – đen, số khung RLCUG0610GY351…, số máy G3D4E369… đã qua sử dụng; 01 ốp đầu đèn, 01 mặt nạ, 02 bửng hông xe Exciter màu đỏ bằng nhựa. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện U Minh trả lại xe cho bị hại Lư Minh V và bị hại không yêu cầu về trách nhiệm dân sự nên không xem xét trong vụ án.
[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo Trần Văn U và Cao Thị Kiều H mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Các bị cáo Trần Văn U (Tên gọi khác: C) và Cao Thị Kiều H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
1. Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Trần Văn U 02 (Hai) năm tù.
Áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự. Tổng hợp hình phạt với Bản án số: 45/2022/HS-ST ngày 02-8-2022 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau, buộc bị cáo Trần Văn U phải chấp hành hình phạt chung là 04 (Bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15 tháng 3 năm 2022.
2. Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Cao Thị Kiều H 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù.
Áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự. Tổng hợp hình phạt với Bản án số: 45/2022/HS-ST ngày 02-8-2022 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau, buộc bị cáo Cao Thị Kiều H phải chấp hành hình phạt chung là 03 (Ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15 tháng 3 năm 2022.
3. Về án phí: Căn cứ Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Các bị cáo Trần Văn U và Cao Thị Kiều H mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Án xử sơ thẩm công khai. Các bị cáo Trần Văn U và Cao Thị Kiều H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại Lư Minh V có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết công khai bản án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 06/2023/HS-ST
Số hiệu: | 06/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/01/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về