Bản án về tội trộm cắp tài sản số 05/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 05/2024/HS-ST NGÀY 26/01/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 46/2023/TLST-HS ngày 20 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2023/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo: Họ và tên: Đặng Minh Th, sinh ngày 19/5/1987;

Tại huyện A, tỉnh Kiên Giang;

Nơi cư trú: Khu phố 4, thị trấn Th, huyện A, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 6/12;

Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đặng Văn M (đã chết) và bà Đỗ Ngọc H;

Tiền án: Ngày 13/6/2017 bị Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xử phạt 01 (Một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án hình sự sơ thẩm số 19/2017/HSST, chấp hành xong ngày 03/02/2018;

- Ngày 27/5/2020 bị Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xử phạt 05 (Năm) tháng 10 (Mười) ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án hình sự sơ thẩm số 19/2017/HSST, chấp hành xong ngày 27/5/2020;

- Ngày 09/3/2021 bị Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xử phạt 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án hình sự sơ thẩm số 19/2017/HSST, chấp hành xong ngày 02/5/2022;

Tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 22/8/2016 bị Công an thị trấn Thứ Ba, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 13/QĐ-XPVPHC và ngày 03/01/2017 bị Công an thị trấn Thứ Ba, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 01/QĐ-XPVPHC về hành vi trộm cắp tài sản; Ngày 14/5/2018 bị Công an thị trấn Thứ Ba, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 33/QĐ-XPVPHC về hành vi đánh nhau;

Bị cáo bị tạm giam ngày 07/8/2023 cho đến nay;

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Phan Thị Ngh, sinh năm 1962. Có mặt Trú tại: Ấp B, xã Th, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Trần Chí T, sinh năm 1978. Vắng mặt Trú tại: Khu phố 3, thị trấn Th, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

Người làm chứng:

- Lê Văn S, sinh năm 1952. Vắng mặt Trú tại: Ấp X, xã T, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

- Lê Định K, sinh năm 2002. Vắng mặt Trú tại: Khu phố 3, thị trấn Th, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

                                                                NỘI DUNG VỤ ÁN                                   

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 20 phút, ngày 03/6/2023, Đặng Minh Th đi từ nhà đến Trung tâm y tế huyện A thuộc khu phố 3, thị trấn Th, huyện A tìm tài sản để lấy trộm. Khi Th đi đến giường bệnh số 05 phòng số 01 Khoa Y học cổ truyền thì phát hiện trên giường bệnh có 01 điện thoại di động hiệu SamSung Galaxy A51 màn hình cảm ứng màu đen của Phan Thị Ngh đang cắm vào ổ điện sạc pin, Th quan sát xung quanh không có ai nên lấy trộm cất giấu trong người, Th tháo 01 sim Mobiphone số 0798068X và 01 sim Vinaphone số 0836178X cất giấu trong người. Sau đó, Th mang điện thoại trộm được đến cửa hàng điện thoại di động C tại thị trấn Th, huyện A bán với giá 700.000 đồng và đã tiêu xài cá nhân hết 300.000 đồng. Nhận được tin báo, Công an thị trấn Th mời Th làm việc thì Th thừa nhận toàn bộ hành vi trộm cắp và tự nguyện giao nộp 01 sim Mobiphone số 0798068X; 01 sim Vinaphone số 0836178X và số tiền 400.000 đồng. Ngoài ra, Th còn khai nhận vào khoảng 01 giờ 30 phút ngày 25/7/2023 Th đột nhập vào nhà anh Lê Định K thuộc khu phố 3, thị trấn Th, huyện A, tỉnh Kiên Giang để lấy trộm tài sản nhưng chưa lấy trộm được tài sản thì bị anh Kh phát hiện trình báo sự việc cho Công an.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 sim Mobiphone số 0798068X; 01 sim Vinaphone số 0836178X và số tiền 400.000 đồng.

Tại Kết luận định giá tài sản số 09/KL-HĐĐG ngày 14/7/2023 của Hội đồng định giá tài sản huyện A kết luận: 01 điện thoại di động hiệu SamSung Galaxy A51 màn hình cảm ứng màu đen có trị giá 5.520.000 đồng.

* Tại bản Cáo trạng số 55/CT-VKSHAB ngày 17/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang đã truy tố bị cáo Đặng Minh Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Đặng Minh Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Đề nghị áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự tuyên xử bị cáo Đặng Minh Th từ 30 tháng tù đến 36 tháng tù;

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo tiếp tục bồi thường cho bị hại số tiền 5.120.000 đồng.

Người bị hại Phan Thị Ngh có ý kiến: Bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; Yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 5.120.000 đồng (Năm triệu một trăm hai mươi nghìn đồng), ngoài ra không yêu cầu gì thêm.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm trở về lao động bồi thường cho bị hại và nuôi dưỡng mẹ già.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện An Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi thực hiện tội phạm: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa thể hiện: Do muốn có tiền tiêu xài nên khoảng 17 giờ 20 phút, ngày 03/6/2023, Đặng Minh Th đi từ nhà đến Trung tâm y tế huyện A thuộc khu phố 3, thị trấn Th, huyện A tìm tài sản để lấy trộm, khi Th đi đến giường bệnh số 05 phòng số 01 Khoa Y học cổ truyền lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu SamSung Galaxy A51 màn hình cảm ứng màu đen của bà Phan Thị Ngh. Sau đó, bị cáo mang điện thoại trộm được đến cửa hàng điện thoại di động C bán với giá 700.000 đồng và đã tiêu xài cá nhân hết 300.000 đồng. Theo kết luận định giá thì chiếc điện thoại có trị giá 5.520.000 đồng. Trước đó, Đặng Minh Th có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” thuộc trường hợp tái phạm chưa được xóa án tích lại tiếp tục thực hiện hành vi “Trộm cắp tài sản” nên thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên truy tố bị cáo Đặng Minh Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội đúng pháp luật.

- Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có năng lực hành vi dân sự, nhận thức được việc lợi dụng sự sơ hở của bị hại lén lút lấy trộm tài sản của họ là vi phạm pháp luật nhưng chỉ vì muốn có tiền tiêu xài mà không cần lao động chân chính mà bị cáo đã bất chấp hậu quả pháp lý. Hành vi của bị cáo không những đã cố ý trực tiếp xâm phạm đến sở hữu tài sản của chủ sở hữu hợp pháp được pháp luật thừa nhận và bảo vệ mà còn làm mất an ninh trật tự xã hội và gây hoang mang lo lắng cho người dân địa phương. Mặt khác, bị cáo đã từng bị xét xử và xử phạt vi phạm hành chính về tội “Trộm cắp tài sản”, lẽ ra sau khi chấp hành xong hình phạt bị cáo phải biết ăn năn, hối cãi để lao động chân chính để giúp ích cho gia đình và xã hội nhưng bị cáo lại tiếp tục phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Do đó, cần xét xử bị cáo một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội và cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân tốt có ích cho xã hội. Đồng thời, qua xét xử nhằm tuyên truyền, ngăn ngừa chung loại tội phạm này trong xã hội. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng xem xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội để tuyên xử mức án phù hợp.

[3] Xét về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại tòa hôm nay, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn khai báo, tỏ ra biết ăn năn hối cải, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo đã tự nguyện giao nộp lại 01 sim Mobiphone số 0798068X, 01 sim Vinaphone số 0836178X và số tiền 400.000 đồng. Do đó, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét khi quyết định hình phạt cho bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và người bị hại thống nhất thỏa thuận bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho người bị hại số tiền 5.520.000 đồng, đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận, bị cáo đã bồi thường được số tiền 400.000 đồng, bị cáo tiếp tục bồi thường cho bị hại số tiền 5.120.000 đồng.

[5] Về biện pháp tư pháp: Đã trả lại cho bị hại 01 sim Mobiphone số 0798068X; 01 sim Vinaphone số 0836178X nên miễn xét.

[6] Hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Đặng Minh Th phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đặng Minh Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Đặng Minh Th 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 07/8/2023.

2. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo Đặng Minh Th và bị hại Phan Thị Ngh, bị cáo Đặng Minh Th có trách nhiệm bồi thường cho bị hại Phan Thị Ngh số tiền 5.120.000 đồng (Năm triệu một trăm hai mươi nghìn đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa bồi thường đủ số tiền nêu trên thì còn phải trả lãi suất chậm thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Đặng Minh Th phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành bản án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

39
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 05/2024/HS-ST

Số hiệu:05/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về