Bản án về tội trộm cắp tài sản số 05/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂY SƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 05/2024/HS-ST NGÀY 21/02/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 21 tháng 02 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/2023/TLST-HS ngày 13 tháng 03 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2024/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 01 năm 2024 đối với các bị cáo:

1. Lê Gia H, sinh ngày 10 tháng 12 năm 1999 tại huyện T, tỉnh B; nơi cư trú: thôn H, xã B, huyện T, tỉnh B; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Kh, sinh năm 1965 và bà Trần Thị Q, sinh năm 1966; vợ, con: chưa; tiền án, tiền sự: chưa; nhân thân:

- Ngày 10/03/2023: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 14/2023/HS-ST (bản án đã có hiệu lực pháp luật) của Toà án nhân dân thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định đã xét xử về tội trộm cắp tài sản theo điểm b, c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo 02 năm 06 tháng tù.

- Ngày 12/09/2023: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 38/2023/HS-ST (bản án đã có hiệu lực pháp luật) của Toà án nhân dân huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định xét xử về tội trộm cắp tài sản theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo 02 năm 06 tháng tù. Tổng hợp hình phạt 02 năm 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản tại bản án hình sự sơ thẩm số 14/2023/HS-ST ngày 10/03/2023 của Toà án nhân dân thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định, buộc chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 05 năm tù.

Bị cáo đang chấp hành án tại Trại giam Gia Trung, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai từ ngày 08/03/2023 cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Trần Văn T, sinh ngày 05 tháng 08 năm 1995 tại huyện Ph, tỉnh B; nơi cư trú: thôn T, xã C, huyện Ph, tỉnh B; nghề nghiệp: thợ hồ; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn D, sinh năm 1971 và bà Huỳnh Thị V, sinh năm 1965; vợ, con: chưa; tiền án, tiền sự: chưa; nhân thân:

- Ngày 10/03/2023: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 14/2023/HS-ST (bản án đã có hiệu lực pháp luật) của Toà án nhân dân thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định đã xét xử về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo 12 tháng tù.

- Ngày 12/09/2023: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 38/2023/HS-ST (bản án đã có hiệu lực pháp luật) của Toà án nhân dân huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định xét xử về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo 12 tháng tù. Tổng hợp hình phạt 12 tháng tù về tội trộm cắp tài sản tại bản án hình sự sơ thẩm số 14/2023/HS-ST ngày 10/03/2023 của Toà án nhân dân thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định, buộc chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 24 tháng tù.

Bị cáo đang chấp hành án tại Trại giam Gia Trung, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai từ ngày 14/02/2023 cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Trần T, sinh ngày 04 tháng 11 năm 1993 tại huyện Ph, tỉnh B; nơi cư trú: thôn H, xã C, huyện Ph, tỉnh B; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn U, sinh năm 1969 và bà Nguyễn Thị Lệ Th, sinh năm 1970; vợ: Lê Thị L, sinh năm 1994; con: 01 người, sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: chưa; nhân thân:

- Ngày 06/3/2014 bị TAND huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định tuyên phạt 12 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích theo khoản 2 Điều 104 BLHS (Bản án số 15/2014/HSST). Chấp hành xong ngày 28/11/2014, đã được xóa án tích.

- Ngày 18/9/2015 bị TAND huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định tuyên phạt 12 tháng tù về tội Cưỡng đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 135 BLHS (Bản án số 54/2015/HSST). Chấp hành xong ngày 16/8/2016, đã được xóa án tích.

- Ngày 06/03/2023: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 05/2023/HS-ST (bản án đã có hiệu lực pháp luật) của Toà án nhân dân huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định xét xử về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo 05 năm tù.

- Ngày 10/03/2023: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 14/2023/HS-ST (bản án đã có hiệu lực pháp luật) của Toà án nhân dân thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định đã xét xử về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo khoản 1 Điều 323 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo 12 tháng tù.

Bị cáo đang chấp hành án tại Trại giam Xuân Phước, tỉnh Phú Yên theo Quyết định thi hành án hình phạt tù số 54/2023/QĐ-CA ngày 11/5/2023 của Toà án nhân dân thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định (tại Quyết định tổng hợp hình phạt số 01/2023/QĐ-CA ngày 10/5/2023 của Toà án nhân dân thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định) về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý và tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, hình phạt 06 (sáu) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 28/10/2022 (theo Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2023/HS-ST ngày 06/03/2023 của Toà án nhân dân huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định) cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

4. Mai Duy Kh, sinh ngày 24 tháng 04 năm 1995 tại huyện Ph, tỉnh B; nơi cư trú: thôn H, xã C, huyện Ph, tỉnh B; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Văn Đ (đã chết) và bà Hồ Thị N, sinh năm 1970; vợ: Huỳnh Thị Trúc Đ, sinh năm 1998; con: 02 người, lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2018; tiền án: không; tiền sự: Ngày 03/6/2021 bị UBND huyện Phù Cát xử phạt vi phạm hành chính về hành vi rủ rê, lôi kéo, tụ tập người khác để đánh bạc trái phép, phạt tiền 7.500.000 đồng, đã nộp phạt vào ngày 11/6/2021; nhân thân:

- Ngày 16/01/2015 bị TAND tỉnh Bình Định tuyên phạt 09 tháng tháng cải tạo không giam giữ về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 250 BLHS (Bản án số 05/2015/HSPT). Chấp hành xong ngày 14/12/2015, đã được xóa án tích.

- Ngày 21/7/2022 bị Công an huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc dưới hình thức xốc bầu cua được thua bằng tiền, phạt tiền 1.500.000 đồng, đã nộp phạt vào ngày 22/7/2022.

- Ngày 10/03/2023: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 14/2023/HS-ST (bản án đã có hiệu lực pháp luật) của Toà án nhân dân thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định đã xét xử về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo 09 tháng tù. Chấp hành xong án phạt tù vào ngày 11/07/2023 tại Trại giam Xuân Phước, tỉnh Phú Yên.

- Ngày 12/09/2023: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 38/2023/HS-ST (bản án đã có hiệu lực pháp luật) của Toà án nhân dân huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định xét xử về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo khoản 1 Điều 323 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo 09 tháng tù.

Bị cáo đang chấp hành án tại Trại giam Gia Trung, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai từ ngày 02/11/2023 cho đến nay (Theo Quyết định thi hành án hình phạt tù số 90/2023/QĐ-CA ngày 23/10/2023 của Toà án nhân dân huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định về tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, hình phạt 09 tháng tù).

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

5. Huỳnh Bảo L, sinh ngày 02 tháng 07 năm 1980 tại huyện Ph, tỉnh B; nơi cư trú: khu A, thị trấn Ng, huyện Ph, tỉnh B; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá:

9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Trọng Th (đã chết) và bà Đặng Thị Ch (đã chết); vợ: Trương Thị Th Tr, sinh năm 1981; con: 02 người, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2018; tiền sự: chưa; tiền án: Ngày 18/5/2021 bị TAND huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định tuyên phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 BLHS (Bản án số 21/2021/HS-ST). Chấp hành xong ngày 05/11/2021, chưa được xóa án tích; nhân thân:

- Ngày 14/9/1999 bị TAND huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định tuyên phạt 08 tháng 19 ngày tù về tội Tội trộm cắp tài sản của công dân theo khoản 1 Điều 155 BLHS (Bản án số 14/HSST). Chấp hành xong ngày 14/9/1999, đã được xóa án tích.

- Ngày 19/4/2001 bị TAND tỉnh Bình Định tuyên phạt 30 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 BLHS (Bản án số 36/HSPT). Chấp hành xong ngày 07/11/2002, đã được xóa án tích.

- Ngày 20/10/2004 bị TAND huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định tuyên phạt 30 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 BLHS (Bản án số 26/HSST). Chấp hành xong ngày 05/01/2007, đã được xóa án tích.

- Ngày 20/12/2007, bị Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở giáo dục, thời hạn 24 tháng theo QĐ số 3010/QĐ-CTUBND, chấp hành xong ngày 27/12/2009.

- Ngày 27/09/2010 bị chủ tịch UBND thị trấn Ngô Mây ra Quyết định về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã với thời hạn 06 tháng từ ngày 27/9/2010 đến 27/3/2011.

- Ngày 17/01/2012 bị TAND huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định tuyên phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 BLHS (Bản án số 03/2012/HSST). Chấp hành xong ngày 03/4/2013, đã được xóa án tích.

- Ngày 09/3/2017 bị TAND huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định tuyên phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 BLHS (Bản án số 05/2017/HSST). Chấp hành xong ngày 16/8/2017, đã được xóa án tích.

- Ngày 12/12/2022, bị TAND huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định tuyên phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 BLHS (Bản án số 43/2022/HS-ST ngày 12/12/2022, đã có hiệu lực pháp luật), ngày bắt: 07/09/2022. Chấp hành xong án phạt tù vào ngày 07/12/2023 tại Trại giam Gia Trung, tỉnh Gia Lai (theo Quyết định thi hành án hình phạt tù số 02/2023/QĐ-CA ngày 17/01/2023 của Toà án nhân dân huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định về tội trộm cắp tài sản).

- Ngày 12/01/2024, bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định khởi tố vụ án, khởi tố bị can về hành vi trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định trong vụ án khác cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại:

1. Bùi Hoài Th, sinh năm 1990 (có đơn vắng mặt);

2. Hà Th T, sinh năm 1976 (có đơn vắng mặt);

Đồng trú tại: thôn Tr, xã T, huyện T, tỉnh B.

3. Hồ Xuân C, sinh năm 1991 (có đơn vắng mặt); Trú tại: thôn Nh, xã T, huyện T, tỉnh B.

4. Trần Văn Ngh, sinh năm 1990 (vắng mặt); Trú tại: thôn th, xã B, huyện T, tỉnh B.

5. Nguyễn Th G, sinh năm 1979 (có đơn vắng mặt); Trú tại: thôn M, xã T, huyện T, tỉnh B.

6. Nguyễn Thành S, sinh năm 1991 (vắng mặt); Trú tại: thôn A, xã T, huyện T, tỉnh B.

- Người làm chứng:

Trương Thị Th Tr, sinh năm 1981 (vắng mặt); Trú tại: khu A, thị trấn Ng, huyện Ph, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Gia H (sinh năm 1999) HKTT: thôn Hòa Mỹ – xã Bình Thuận – huyện Tây Sơn – tỉnh Bình Định, không có việc làm, không có tiền tiêu xài cá nhân nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản, H rủ và cùng Trần Ti (sinh năm 1993) HKTT: thôn Hòa Hội – xã Cát Hanh – huyện Phù Cát – tỉnh Bình Định và Trần Văn T (sinh năm 1995) HKTT: thôn Tường Sơn – xã Cát Tường – huyện Phù Cát – tỉnh Bình Định thực hiện 04 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Tây Sơn, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 01 giờ ngày 08/5/2022, sau khi chơi ở phòng trọ của H tại khu An Ninh – thị trấn Ngô Mây – huyện Phù Cát – tỉnh Bình Định, Trần Ti nhờ H chở về phòng trọ của mình ở khu An Hòa – thị trấn Ngô Mây – huyện Phù Cát – tỉnh Bình Định, H đồng ý. Ti điều khiển xe mô tô nhãn hiệu EXCITER biển số 77H1-X của H chở H đi về phòng trọ của Ti. Trên đường đi, H nảy sinh ý định nhổ trộm cây cảnh bán nên rủ Ti đi cùng, Ti đồng ý. H chỉ đường cho Ti đi từ thị trấn Ngô Mây đến xã Tây An – huyện Tây Sơn để tìm cây cảnh. Khi đến đoạn đường Quốc lộ 19B thuộc Trà Sơn – Tây An – Tây Sơn – Bình Định, H phát hiện bên hông phía đông nhà của anh Bùi Hoài Th (sinh năm 1990) có để nhiều cây cảnh nhưng không có người trông coi nên nói Ti dừng xe lại trước cây xăng ngồi chờ. H xuống xe đi lại vị trí 01 cây lồng mức ghép cây hoa mai chiếu thủy của ông Hà Th T (sinh năm 1976) ở Trà Sơn – Tây An – Tây Sơn – Bình Định gửi anh Th chăm sóc, được trồng trong chậu kiểng xi măng, H dùng hai tay nhổ rồi ôm ra xe mô tô, H bỏ cây lên giữa yên xe, ngồi phía sau ôm, giữ rồi Ti chở H quay về phòng trọ của H để cất giấu. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, Mai Duy K (sinh năm 1995) HKTT: thôn Hội Sơn – xã Cát Sơn – huyện Phù Cát – tỉnh Bình Định đến phòng trọ thấy cây lồng mức ghép cây hoa mai chiếu thủy mà H vừa nhổ trộm, mặc dù K biết rõ cây cảnh trên do H trộm cắp mà có nhưng vẫn mua với giá 800.000 đồng, số tiền bán cây H không chia cho Ti mà dùng để chi tiêu sinh hoạt, ăn nhậu hằng ngày và đã sử dụng hết.

Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT – Công an huyện Tây Sơn thu giữ được 01 (Một) cây lồng mức ghép cây hoa mai chiếu thủy, cao 90cm, tán cây rộng 70cm, chu vi gốc 40 cm, bộ rễ có đường kính 120 cm. Ngày 28/12/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tây Sơn kết luận: cây lồng mức ghép cây hoa mai chiếu thủy, bị chiếm đoạt vào ngày 08/5/2022, tại thời điểm bị chiếm đoạt tài sản có giá trị là 4.000.000 đồng. Tài sản này đã được trả lại cho chủ sở hữu.

Vụ thứ hai: Khoảng 01 giờ ngày 18/5/2022, sau khi nhậu Lê Gia H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu EXCITER biển số 77H1-X đi từ thị xã An Nhơn về xã Tây Vinh – huyện Tây Sơn, khi đi qua cầu Du Lâm một đoạn khoảng 20m, H thấy trước nhà anh Hồ Xuân Cần (sinh năm 1991) ở Nhơn Thuận – Tây Vinh – Tây Sơn – Bình Định để nhiều cây cảnh ngoài sân, không có cổng ngõ, không có người qua lại nên nảy sinh ý định trộm cây cảnh, H quay ngược xe lại và bỏ xe trên cầu Du Lâm rồi đi bộ đến trước sân nhà anh Cần quan sát, dùng hai tay đào và nhổ 01 cây mai cảnh, dáng trực của anh Nguyễn Thành Son (sinh năm 1991) ở An Vinh 1 – Tây Vinh – Tây Sơn – Bình Định gửi anh Cần chăm sóc, chở về phòng trọ ở khu An Ninh – thị trấn Ngô Mây – huyện Phù Cát – tỉnh Bình Định cất giấu. Đến khoảng 08 giờ sáng cùng ngày, Mai Duy K (sinh năm 1995) HKTT: thôn Hội Sơn – xã Cát Sơn – huyện Phù Cát – tỉnh Bình Định đến phòng trọ thấy cây mai cảnh mà H vừa nhổ trộm, mặc dù K biết rõ cây cảnh trên do H trộm cắp mà có nhưng vẫn mua với giá 1.000.000 đồng. Số tiền trên H đã sử dụng hết.

Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT – Công an huyện Tây Sơn thu giữ được 01 cây mai cảnh, dáng trực, cao 135cm, tán rộng 100cm, chu vi gốc 25cm. Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tây Sơn kết luận: cây mai cảnh, dáng trực, bị chiếm đoạt vào ngày 18/5/2022, tại thời điểm bị chiếm đoạt tài sản có giá trị là 3.600.000 đồng. Tài sản này đã được trả lại cho chủ sở hữu.

Vụ thứ ba: Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 08/6/2022, Lê Gia H và Trần Văn T rủ nhau đến địa bàn huyện Tây Sơn – tỉnh Bình Định để nhổ trộm cây cảnh bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu EXCITER biển số 77H1-X chở T từ thị trấn Ngô Mây – huyện Phù Cát đến địa bàn xã Bình Thuận – huyện Tây Sơn tìm kiếm cây cảnh. Khi đi đến đoạn đường ĐT638 thuộc thôn Thuận Truyền – Bình Thuận – Tây Sơn – Bình Định, T phát hiện ở phía trước nhà anh Trần Văn Ng (sinh năm 1990) có để nhiều cây cảnh, không có ai trông coi nên vỗ vai nói H quay xe lại, H quay xe dừng trước nhà anh Ng đứng chờ, T xuống xe đi đến vị trí một cây hoa giấy cảnh, phần thân bị rỗng một phần được trồng trong một chậu kiểng bằng xi măng, T dùng hai tay nhổ cây hoa giấy này lên rồi đem ra bỏ lên yên xe mô tô, T ngồi phía sau ôm giữ cây hoa giấy, H điều khiển xe đến nhà Huỳnh Bảo L (sinh năm 1980) HKTT: khu An Ninh – thị trấn Ngô Mây – huyện Phù Cát – tỉnh Bình Địnhh bán. Khoảng 04 giờ cùng ngày, H và T chở cây hoa giấy đến bán nhưng L chê cây xấu không mua, H và T gửi cây hoa giấy này tại nhà L rồi tiếp tục đến địa bàn thị xã An Nhơn để nhổ trộm thêm một cây hoa giấy cảnh khác, khoảng 05 giờ cùng ngày, H và T mang cây hoa giấy khác đến bán nhưng L chê cây xấu không mua nên H gửi cả 02 cây hoa giấy tại nhà L. Đến khoảng 07 giờ cùng ngày, khi quan sát 02 cây hoa giấy, lúc này L biết rõ cây 02 cây giấy trên do H và T trộm cắp mà có nhưng đến 09 giờ cùng ngày, H đến nhà L tiếp tục gạ bán, L đồng ý mua hai cây hoa giấy cảnh trên với giá 800.000 đồng. Số tiền trên H không đưa T mà dùng để trả vào chi phí sinh hoạt, ăn nhậu chung và sử dụng hết.

Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT – Công an huyện Tây Sơn thu giữ được 01 (một) cây hoa giấy, phần thân bị rỗng một phần, cao 113cm, tán rộng 156cm, chu vi gốc 40cm. Ngày 22/9/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tây Sơn kết luận: cây hoa giấy, phần thân bị rỗng một phần, bị chiếm đoạt vào ngày 08/6/2022, tại thời điểm bị chiếm đoạt tài sản có giá trị là 2.600.000 đồng. Tài sản này đã được trả lại cho chủ sở hữu.

Vụ thứ tư: Sau nhiều lần mua các cây cảnh mà biết rõ do H trộm cắp mà có, thấy giá cây cảnh bán rẻ, nên vào ngày 11/6/2022, Mai Duy K nhắn tin cho H là: “Đừng bán nhen cứ có mai đem về anh”, hứa hẹn trước với H trộm được cây mai thì bán cho K, H đồng ý. Nên khoảng 01 giờ ngày 12/6/2022, Lê Gia H rủ Trần Văn T đến địa bàn huyện Tây Sơn để nhổ trộm cây cảnh, T đồng ý. H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu EXCITER biển số 77H1 X chở T từ thị trấn Ngô Mây – huyện Phù Cát đến địa bàn xã Tây Bình – huyện Tây Sơn tìm kiếm cây cảnh. Khi đi đến Trường trung học cơ sở Tây Bình, T phát hiện có đám cây cảnh trước tường rào Trường trung học cơ sở Tây Bình nên nói H dừng xe, T xuống xe nói H đi 10 phút sau quay lại, T đi vào nhổ 01 cây hoa mai, dáng trực (lùm) của ông Nguyễn Th Giang (sinh năm 1979) ở Mỹ Thuận – Tây Bình – Tây Sơn – Bình Định được trồng trong chậu bát giác rồi đem ra bỏ lên yên xe mô tô, T ngồi phía sau ôm giữ, H điều khiển xe chở về phòng trọ ở thị trấn Ngô Mây – huyện Phù Cát – tỉnh Bình Định cất giấu. Đến khoảng 09 giờ sáng cùng ngày, theo hứa hẹn, H gọi điện thoại cho Mai Duy K đến mua cây, K đến phòng trọ và mua cây mai cảnh mà H nhổ trộm với giá khoảng 600.000 đồng. Số tiền trên H không đưa T mà dùng để trả vào chi phí sinh hoạt, ăn nhậu chung và sử dụng hết.

Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT – Công an huyện Tây Sơn thu giữ được 01 cây hoa mai, dáng trực (lùm), cao 1,2m, tán rộng 0,65m, hoành thân 0,43m. Ngày 26/9/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tây Sơn kết luận: cây hoa mai, dáng trực (lùm), bị chiếm đoạt vào ngày 12/6/2022, tại thời điểm bị chiếm đoạt tài sản có giá trị là 5.267.000 đồng. Tài sản này đã được trả lại cho chủ sở hữu.

Tại Bản cáo trạng số 14/CT – VKSTS ngày 08/03/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn đã truy tố các bị cáo Lê Gia H, Trần Văn T, Trần Ti về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự; bị cáo Mai Duy K về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự và tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Khoản 1 Điều 323 của Bộ luật hình sự; bị cáo Huỳnh Bảo L về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Khoản 1 Điều 323 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội nêu trên.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố:

* Về tội danh:

- Các bị cáo Lê Gia H, Trần Văn T, Trần Ti phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

- Bị cáo Mai Duy K phạm tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”;

- Bị cáo Huỳnh Bảo L phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

* Về hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng Khoản 1 Điều 173; điểm g Khoản 1 Điều 52; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Gia H mức án từ 12 đến 18 tháng tù. Áp dụng Điều 56 của Bộ luật hình sự. Tổng hợp hình phạt 05 (năm) năm tù tại Bản án số 38/2023/HS-ST ngày 12/09/2023 của Tòa án nhân dân huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung.

- Áp dụng Khoản 1 Điều 173; điểm g Khoản 1 Điều 52; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Văn T mức án từ 09 đến 12 tháng tù. Áp dụng Điều 56 của Bộ luật hình sự. Tổng hợp hình phạt 02 (hai) năm tù tại Bản án số 38/2023/HS-ST ngày 12/09/2023 của Tòa án nhân dân huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung.

- Áp dụng Khoản 1 Điều 173; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Ti mức án từ 06 đến 09 tháng tù. Áp dụng Điều 56 của Bộ luật hình sự. Tổng hợp hình phạt tù tại Quyết định tổng hợp số 01/2023/QĐ-CA ngày 10/05/2023 của Toà án nhân dân thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định đối với bị cáo Trần Ti về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý và tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung.

- Áp dụng Khoản 1 Điều 173; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Mai Duy K 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” .

Áp dụng Khoản 1 Điều 323; điểm g Khoản 1 Điều 52; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Mai Duy K 06 (sáu) tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Áp dụng Điều 55, Điều 56 của Bộ luật hình sự. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 12 (mười hai) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 09 (chín) tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 38/2023/HS-ST ngày 12/09/2023 của Tòa án nhân dân huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 21 (hai mươi mốt) tháng tù.

- Áp dụng Khoản 1 Điều 323; điểm h Khoản 1 Điều 52; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Huỳnh Bảo L mức án từ 06 đến 09 tháng tù.

* Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên đề nghị không xét.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận về quan điểm luận tội cũng như đề nghị giải quyết vụ án của vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tây Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và Điều luật áp dụng: Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu, lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, thể hiện:

Vì muốn có tiền tiêu xài cá nhân nên trong khoảng thời gian từ ngày 08/5/2022 đến ngày 12/6/2022, Lê Gia H đã rủ và cùng Trần Ti, Trần Văn T nhiều lần nhổ trộm cây cảnh trên địa bàn huyện Tây Sơn. Trong đó, Lê Gia H đã thực hiện 04 vụ trộm cắp tài sản, tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là:

15.467.000 đồng; Trần Văn T tham gia cùng Lê Gia H thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản, tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là: 7.867.000 đồng; Trần Ti tham gia cùng Lê Gia H thực hiện 01 vụ trộm cắp tài sản, giá trị tài sản bị chiếm đoạt là: 4.000.000 đồng;

Đối với Mai Duy K biết rõ 01 (Một) cây lồng mức ghép cây hoa mai chiếu thủy và 01 cây mai cảnh, dáng trực, cao 135cm (tổng giá trị là 7.600.000 đồng) H bán là do trộm cắp mà có nhưng vẫn mua, sau đó nhắn tin hứa hẹn trước và mua 01 cây hoa mai, dáng trực (lùm) có giá trị là 5.267.000 đồng;

Đối với Huỳnh Bảo L không hứa hẹn trước, biết rõ 01 cây hoa giấy có giá trị 2.600.000 đồng do H trộm cắp mà có nhưng vẫn đồng ý mua.

Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Lê Gia H, Trần Văn T, Trần Ti phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự; Bị cáo Mai Duy K phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự và tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại khoản 1 Điều 323 của Bộ luật hình sự; Bị cáo Huỳnh Bảo L phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại khoản 1 Điều 323 của Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn truy tố là có căn cứ.

[3] Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của các bị cáo: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm trực tiếp đến tài sản của người khác một cách trái pháp luật mà còn gây mất trật tự trị an ở địa phương, gây hoang mang cho quần chúng nhân dân trên địa bàn. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, ý thức được việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, cũng như biết việc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, cần phải xử phạt các bị cáo một mức án tương xứng với tính chất hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra.

[4] Xét vai trò của các bị cáo trong vụ án: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, trong đó:

- Bị cáo Lê Gia H là người rủ rê, khởi xướng, thực hành và chuẩn bị phương tiện phạm tội cùng với đồng phạm khác đã thực hiện 04 vụ trộm cắp tài sản, tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là: 15.467.000 đồng nên bị cáo H phải chịu hình phạt cao nhất trong vụ án.

- Bị cáo Trần Văn T có vai trò vừa là người thực hành, cảnh giới tích cực trong vụ án, bị cáo tham gia cùng Lê Gia H thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản, tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là: 7.867.000 đồng nên hình phạt bị cáo thấp hơn bị cáo H nhưng cao hơn các bị cáo còn lại.

- Bị cáo Trần Ti có vai trò là người giúp sức, bị cáo tham gia cùng Lê Gia H thực hiện 01 vụ trộm cắp tài sản, giá trị tài sản bị chiếm đoạt là: 4.000.000 đồng nên hình phạt bị cáo thấp hơn H và T.

- Bị cáo Mai Duy K biết rõ H đem bán 01 (Một) cây lồng mức ghép cây hoa mai chiếu thủy và 01 cây mai cảnh, dáng trực, cao 135cm (tổng giá trị là 7.600.000 đồng) là do trộm cắp mà có nhưng vẫn mua, sau đó nhắn tin hứa hẹn trước và mua 01 cây hoa mai, dáng trực (lùm) có giá trị là 5.267.000 đồng nên mức hình phạt bị cáo tương xứng hành vi bị cáo tham gia từng tội.

- Bị cáo Huỳnh Bảo L không hứa hẹn trước, biết rõ 01 cây hoa giấy có giá trị 2.600.000 đồng do H trộm cắp mà có nhưng vẫn đồng ý mua nên hình phạt bị cáo tương xứng hành vi mà bị cáo tham gia.

[5] Đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 38/2023/HS-ST ngày 12/09/2023 của Tòa án nhân dân huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định xử phạt, tổng hợp hình phạt và bản án đã có hiệu lực pháp luật đối với các bị cáo Lê Gia H, Trần Văn T, Mai Duy K. Hiện nay bị cáo H, T, K đang chấp hành án tại Trại giam Gia Trung ở tỉnh Gia Lai. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 của Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt của bản án mới, buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án.

[6] Đối với Quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm số 57/2023/HSPT- QĐ ngày 28/04/2023 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Định, Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2023/HS-ST ngày 10/03/2023 của Tòa án nhân dân thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định và Quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm số 53/2023/HSPT-QĐ ngày 20/04/2023 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Định, Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2023/HS-ST ngày 06/03/2023 của Tòa án nhân dân huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định đã được tổng hợp hình phạt tù của nhiều bản án tại Quyết định tổng hợp số 01/2023/QĐ-CA ngày 10/05/2023 của Toà án nhân dân thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định đối với bị cáo Trần Ti về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý và tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 06 (sáu) năm tù. Hiện nay bị cáo Trần Ti đang chấp hành án tại Trại giam Xuân Phước ở tỉnh Phú Yên theo quyết định tổng hợp này. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định hình phạt của bản án mới, đồng thời quyết định tổng hợp hình phạt chung, buộc bị cáo phải chấp hành.

[7] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo:

[7.1] Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân xấu.

[7.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

- Các bị cáo Lê Gia H, Trần Văn T, Mai Duy K có 01 tình tiết tăng nặng: phạm tội 02 lần trở lên được quy định tại điểm g Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

- Bị cáo Huỳnh Bảo L có 01 tình tiết tăng nặng: tái phạm được quy định tại điểm h Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[7.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; tài sản đã bị thu hồi trả lại cho người bị hại; người bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm; các bị hại đã bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, các bị cáo có nhân thân xấu, đã bị xét xử nhiều lần về hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng không xem đó là bài học cho bản thân mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác. Do đó, cần xử phạt các bị cáo mức án nghiêm khắc của khung hình phạt như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa mới đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xét.

[9] Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, các bị cáo Lê Gia H, Trần Văn T, Trần Ti, Mai Duy K, Huỳnh Bảo L, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên xử:

1. Về tội danh:

Tuyên bố các bị cáo Lê Gia H, Trần Văn T, Trần T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo Mai Duy Kh phạm tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Bị cáo Huỳnh Bảo L phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

2. Về hình phạt:

2.1 Căn cứ Khoản 1 Điều 173; điểm g Khoản 1 Điều 52; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Gia H 15 (mười lăm) tháng tù. Áp dụng Điều 56 của Bộ luật hình sự. Tổng hợp hình phạt 05 (năm) năm tù tại Bản án số 38/2023/HS-ST ngày 12/09/2023 của Tòa án nhân dân huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 06 (sáu) năm 03 (ba) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam: ngày 14/12/2022, được khấu trừ thời hạn tạm giam từ ngày 18/07/2022 đến ngày 14/12/2022 (Theo Bản án hình sự số 14/2023/HS-ST ngày 10/03/2023 của Tòa án nhân dân thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định).

2.2 Căn cứ Khoản 1 Điều 173; điểm g Khoản 1 Điều 52; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Văn T 09 (chín) tháng tù. Áp dụng Điều 56 của Bộ luật hình sự. Tổng hợp hình phạt 02 (hai) năm tù tại Bản án số 38/2023/HS-ST ngày 12/09/2023 của Tòa án nhân dân huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam: ngày 14/02/2023, được khấu trừ thời hạn tạm giam từ ngày 18/07/2022 đến ngày 15/10/2022 (Theo Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2023/HS-ST ngày 10/03/2023 của Tòa án nhân dân thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định).

2.3 Căn cứ Khoản 1 Điều 173; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần T 06 (sáu) tháng tù. Áp dụng Điều 56 của Bộ luật hình sự. Tổng hợp hình phạt tù tại Quyết định tổng hợp số 01/2023/QĐ-CA ngày 10/05/2023 của Toà án nhân dân thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định đối với bị cáo Trần T về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý và tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam: ngày 28/10/2022 (Theo Quyết định tổng hợp hình phạt tù của nhiều bản án số 01/2023/QĐ-CA ngày 10/05/2023 của Toà án nhân dân thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định).

2.4 Căn cứ Khoản 1 Điều 173; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Mai Duy Kh 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” .

Căn cứ Khoản 1 Điều 323; điểm g Khoản 1 Điều 52; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Mai Duy Kh 06 (sáu) tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Áp dụng Điều 55, Điều 56 của Bộ luật hình sự. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 12 (mười hai) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 09 (chín) tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 38/2023/HS-ST ngày 12/09/2023 của Tòa án nhân dân huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 21 (hai mươi mốt) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án: ngày 02/11/2023 (Theo biên bản giao, nhận phạm nhân ngày 28/11/2023 giữa Trại giam Gia Trung và Nhà tạm giữ Công an huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định).

2.5 Căn cứ Khoản 1 Điều 323; điểm h Khoản 1 Điều 52; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Huỳnh Bảo L 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

3. Về trách nhiệm dân sự: Các bên đương sự không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xét.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Các bị cáo Lê Gia H, Trần Văn T, Trần T, Mai Duy Kh, Huỳnh Bảo L, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án theo quy định.

6. Về quyền và nghĩa vụ thi hành án:

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

11
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 05/2024/HS-ST

Số hiệu:05/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tây Sơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:21/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về