TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ LONG MỸ, TỈNH HẬU GIANG
BẢN ÁN 05/2024/HS-ST NGÀY 31/01/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 31 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã L, tỉnh H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 07/2024/TLST- HS ngày 22 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2024/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:
Nguyễn Thái D, tên gọi khác: Không; Sinh ngày 06/3/2006; nơi sinh: thị xã L, tỉnh H. Nơi cư trú: Khu vực T, Phường B, thị xã L, tỉnh H; nghề nghiệp: Không (học sinh); trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thái M và bà Lê Thị Cẩm H; tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị can Nguyễn Thái D bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là cấm đi khỏi nơi cư trú kể từ ngày 14/11/2023 cho đến nay. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
Người đại diện hợp pháp cho bị cáo: Ông Nguyễn Thái M, sinh năm 1982 và bà Lê Thị Cẩm H, sinh năm 1982; nơi cư trú: Khu V, Phường B, thị xã L, tỉnh H;
Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Minh K, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh H (có mặt).
- Đại diện của Trường Trung học phổ thông L1: Bà Tiêu Bích N, sinh năm 1979 (có mặt).
Địa chỉ: khu vực Bình Thạnh B, phường B, thị xã L, tỉnh H.
- Bị hại:
Lê Hoàng M1, sinh ngày: 04/6/2006.
Người đại diện hợp pháp cho bị hại: ông Lê Hoàng V, sinh năm 1984 (vắng mặt). Có ông Lê H1 (là ông nội của Lê Hoàng M1 là người đại diện hợp pháp).
Cùng địa chỉ: Khu V, phường T, thị xã L, tỉnh H.
Trần Phú T, sinh ngày: 16/7/2006. (vắng mặt)
Người đại diện hợp pháp cho bị hại: Ông Trần Thanh T1, sinh năm 1984. (vắng mặt)
Cùng địa chỉ: ấp E, xã L, thị xã L, tỉnh H.
Nguyễn Trọng L, sinh năm: 2005 (vắng mặt).
Địa chỉ: khu V, phường B, thị xã L, tỉnh H.
Phan Đăng K1, sinh ngày 07/6/2006 (có mặt).
Người đại diện hợp pháp cho bị hại: Ông Phan Văn P, sinh năm 1980 (có mặt).
Cùng địa chỉ: ấp L, xã L, thị xã L, tỉnh H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 08 giờ 55 phút ngày 24/10/2023, tại trường THPT L1 thuộc khu vực Bình Thạnh B, phường B, thị xã L, tỉnh H. Học sinh lớp 12T12 đi học tiết thể dục ngoài trời, khi đi học thì các em học sinh để tài sản trong lớp học.
Đến khoảng 09 giờ 05 phút ngày 24/10/2023, Nguyễn Thái D học lớp 12T12 đi từ căn tin nhà trường vào lớp thì thấy các bạn đã đi ra ngoài học tiết thể dục. Lúc này, D đến bàn học của Lê Hoàng M1 lấy 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 14promax màu đen, tắt nguồn rồi bỏ vào cặp của D. Tiếp theo, D tiếp tục lục tìm trong cặp của của Nguyễn Phú T2 lấy trộm được 200.000 đồng, của Phan Đăng K1 lấy trộm được 100.000 đồng và của Nguyễn Trọng L lấy trộm được 30.000 đồng. Số tiền trộm được D giấu trong cuốn tập của D. Sau khi trộm được tài sản, D đến gặp cô giáo chủ nhiệm để giải thích về vấn đề D thường xuyên nghỉ học. Sau đó, D lấy lý do nhà có việc xin về nên cô đồng ý. Về đến nhà, D cất cuốn tập có giấu 330.000 đồng vừa trộm được trong bàn học, còn điện thoại Iphone 14 Promax, D đem giấu ở gốc cây dừa gần nhà.
Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, Cơ quan Công an mời làm việc thì D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.
Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 48/HĐĐGTS ngày 09/11/2023 của Hội đồng định giá tài sản thị xã L, kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 14promax màu đen, đã qua sử dụng, số Imei 1: 350636270915520; Imei 2: 350636270745315. Giá trị tài sản là 21.000.000 đồng”. Như vậy, tổng giá trị tài sản mà Nguyễn Thái D chiếm đoạt là 21.330.000 đồng.
Vật chứng thu giữ:
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 14Promax màu đen, đã qua sử dụng, Số Imei 1: 350636270915520; Imei 2: 350636270745315.
- Tiền Việt Nam: 330.000 đồng.
Về xử lý vật chứng:
Ngày 14/11/2023, Cơ quan CSĐT Công an thị xã L đã trả lại cho Lê Hoàng M1 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 14Promax màu đen, đã qua sử dụng, số Imei 1: 350636270915520; Imei 2: 350636270745315; Trả cho Nguyễn Phú T2 200.000 đồng, Phan Đăng K1 100.000 đồng và Nguyễn Trọng L 30.000 đồng.
Tại cáo trạng số 09/CT-VKS-TXLM ngày 18/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L, tỉnh H đã truy tố bị cáo Nguyễn Thái D về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Thái D về tội danh và điều luật như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Thái D phạm tội: Trộm cắp tài sản.
Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36; Điều 100 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt Bị cáo Trộm cắp tài sản mức án từ 06 tháng đến 09 tháng cải tạo không giam giữ.
Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường T giám sát giáo dục trong thời gian chấp hành án.
Về trách nhiệm dân sự: Đã khắc phục hậu quả xong, bị hại không có yêu cầu gì nên không xem xét.
Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã L đã xử lý trả lại cho bị hại xong.
Người bào chữa cho bị cáo trình bày ý kiến tranh luận: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, 36, 100 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Đề nghị thêm tình tiết bị cáo phạm tội nhất thời, có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Đề nghị Hội đồng xét xử xử áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo.
Bị cáo không trình bày ý kiến tranh luận, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Việc khởi tố, điều tra của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã L; việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L, tỉnh H được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Tại phiên tòa, vắng mặt bị hại Trần Phú T, Nguyễn Trọng L và người đại diện hợp pháp của bị hại T. Việc vắng mặt của những người tham gia tố tụng nêu trên không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án nên căn cứ Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự, tiến hành xét xử vắng mặt đối với những người tham gia tố tụng nêu trên.
[3] Về nội dung giải quyết vụ án: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án chứng minh được: Đến khoảng 09 giờ 05 phút ngày 24/10/2023, Nguyễn Thái D, học lớp 12T12 đi từ căn tin nhà trường vào lớp thì thấy các bạn đã đi ra ngoài học tiết thể dục. Lúc này, D đến bàn học của Lê Hoàng M1 lấy 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 14promax màu đen, tắt nguồn rồi bỏ vào cặp của D. Tiếp theo, D tiếp tục lục tìm trong cặp của Nguyễn Phú T2 lấy trộm được 200.000 đồng, của Phan Đăng K1 lấy trộm được 100.000 đồng và của Nguyễn Trọng L lấy trộm được 30.000 đồng.
[4] Tại bản Kết luận định giá tài sản số 48/HĐĐGTS ngày 09/11/2023 của Hội đồng định giá tài sản thị xã L, kết luận: “01 điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 14promax màu đen, có giá trị là 21.000.000 đồng”. Như vậy, tổng giá trị tài sản mà Nguyễn Thái D chiếm đoạt là 21.330.000 đồng.
[5] Đối chiếu hành vi của bị cáo Nguyễn Thái D đã thực hiện với quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ của Bộ luật hình sự thì hành vi của bị cáo Nguyễn Thái D đã thoả mãn yếu tố cấu thành tội phạm Trộm cắp tài sản tội phạm và hình phạt được quy định tại tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự nên Viện kiểm sát nhân dân thị xã L đã truy tố bị cáo Nguyễn Thái D với tội danh và điều luật như Cáo trạng là có căn cứ, đúng người đúng tội.
[6] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ. Bị cáo biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp nên cần có mức án nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.
[7] Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có thân nhân là người có công với cách mạng, có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo tự nguyện giao nộp các tài sản trả lại cho bị hại và gia đình bị hại đều xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi xem xét áp dụng điểm điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 100 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[8] Xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, phạm tội nhất thời, khi thực hiện hành vi phạm tội chưa đủ 18 tuổi nên chưa nhận thức đầy đủ quy định pháp luật, bị cáo đang học lớp 12T12, tại Trường Trung học phổ thông L1, có hạnh kiểm tốt, chứng minh được ngoài lần phạm tội này bị cáo luôn chấp hành tốt nội quy, quy định của nhà trường, các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, quy định của địa phương. Qua xem xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ xét thấy không cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội, chỉ cần áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo, giao bị cáo cho gia đình và chính quyền địa phương giám sát giáo dục cũng đủ răn đe đối với bị cáo, khoan hồng cho bị cáo có cơ hội để tiếp tục học tập, sửa chữa tu dưỡng bản thân thành công dân có ích cho xã hội. Do đó có cơ sở chấp nhận đề nghị của người bào chữa và Đại diện Viện kiểm sát.
[9] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự đã giải quyết xong ở giai đoạn điều tra nên không xem xét.
[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Thái D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
[2] Căn cứ khoản 1 Điều 173 điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, 36, 100 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
[3] Xử phạt bị cáo Nguyễn Thái D 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường B, thị xã L, tỉnh H giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo Nguyễn Thái D có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân phường B, thị xã L, tỉnh H trong việc giám sát, giáo dục bị cáo Nguyễn Thái D trong thời gian chấp hành án. Miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo Nguyễn Thái D do bị cáo chưa đủ 18 tuổi.
[4] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự đã giải quyết xong trong giai đoạn điều tra nên không xem xét.
[5] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thái D phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[6] Bị cáo, bị hại, người bào chữa cho bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị hại có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị hại, người đại diện hợp pháp cho bị hại vắng mặt tại phiên tòa, thời hạn kháng cáo là 15 (mười lăm) ngày được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 05/2024/HS-ST
Số hiệu: | 05/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Long Mỹ - Hậu Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về