Bản án về tội trộm cắp tài sản số 05/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN - TỈNH HOÀ BÌNH

BẢN ÁN 05/2023/HS-ST NGÀY 10/02/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10/02/2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 27/2023/TLST-HS ngày 16 tháng 01 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2023/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 01 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Bùi Văn Th, sinh ngày 24/07/1997 tại xã Yên P, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Nơi cư trú: xóm Trắng Đồi, xã Yên P, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ học vấn: 09/12; Bố đẻ: Bùi Văn L, sinh năm 1970; Mẹ đẻ: Bùi Thị T, sinh năm 1975; Bị cáo là con thứ nhất trong gia đình có 02 anh em. Vợ, con: Chưa có; Tiền sự: Không;

Tiền án: 02 tiền án, Ngày 23/5/2018, bị Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình xử phạt 12 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản, ngày 08/11/2018 chấp hành xong hình phạt trở về địa phương. Đến ngày 31/5/2020, chưa được xóa án tích đã tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, ngày 06/4/2021, bị Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 08/11/2022. Có mặt.

2. Quách Văn L, sinh ngày 11/10/1989 tại xã Yên P, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình; Nơi cư trú: xóm Bùi Bái, xã Yên P, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ học vấn: 04/12; Bố đẻ: Quách Văn S; Mẹ đẻ: Bùi Thị Nh; Bị cáo là con thứ nhất trong gia đình có 02 anh em; Vợ: Bùi Thị Th, sinh năm 1989; Con: 02 con, lớn nhất sinh năm 2011, nhỏ nhất sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 23/11/2022. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Quách Văn L: Ông Bùi Văn M – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý tỉnh Hòa Bình. Có mặt.

- Người bị hại: Công ty TNHH Mỹ Ph. Địa chỉ: phố Độc L, TT Vụ B, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng: Ông Bùi Văn S, sinh năm 1975. Nơi cư trú: phố Mường Vôi, TT Vụ B, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Chị Bùi Thị Th, sinh năm 1989. Nơi cư trú: xóm Bùi Bái, xã Yên P, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ, ngày 11/8/2022, Bùi Văn Th đi đến khu Công viên thuộc thị trấn Vụ B, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình chơi thì gặp Quách Văn L. Do đều là đối tượng nghiện chất ma túy và đang không có tiền tiêu sài, Bùi Văn Th và Quách Văn L đã bàn bạc, rủ nhau đi quanh thị trấn Vụ B tìm tài sản không có người trông coi để lấy trộm tài sản bán lấy tiên tiêu sài. Quách Văn L nói cho Bùi Văn Th biết khu Bãi cống của Công ty TNHH Mỹ Ph thuộc phố Độc L, thị trấn Vụ B, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình có sắt không có ai trông coi và đến đấy lấy tài sản, nghe xong Bùi Văn Th đồng ý. Sau đó Bùi Văn Th lấy xe mô tô BKS 28G1 – X do Quách Văn L đi đến rồi một mình đi đến kho Bãi cống của Công ty TNHH Mỹ Ph, còn Quách Văn L ở lại Công viên đợi Bùi Văn Th quay lại. Khi Bùi Văn Th đến nơi, Bùi Văn Th đã lén lút đi xe vào trong kho Bãi để tìm tài sản thì phát hiện trong kho Bãi cống của Công ty Mỹ Ph có các tấm sắt đã được đan thành dạng vỉ, Bùi Văn Th lấy các thanh sắt đó cho lên xe mô tô chở quay ra Công viên đón Quách Văn L, rồi cùng Quách Văn L mang các tấm sắt trên lên khu vực phố Tân Giang, thị trấn Vụ B, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình, bán cho một người phụ nữ không quen biết được số tiền là 285.000đ (Hai trăm tám lăm nghìn đồng). Bùi Văn Th là người trực tiếp giao dịch bán sắt và cầm tiền bán được. Sau khi bán được sắt, Bùi Văn Th và Quách Văn L quay lại Công viên, rồi Bùi Văn Th tiếp tục rủ Quách Văn L cùng đi sang khu Bãi cống của Công ty Mỹ Ph để trộm cắp tiếp, Quách Văn L đồng ý. Quách Văn L là người lái xe, còn Bùi Văn Th ngồi sau. Khi đi đến khu vực cổng phố Mường Vôi, thị trấn Vụ B thì Bùi Văn Th bảo Quách Văn L dừng xe lại và bảo Quách Văn L ở lại đó đợi, cảnh giới cho Bùi Văn Th, còn Bùi Văn Th một mình đi vào khu Bãi cống của Công ty Mỹ Ph để lục tìm tài sản. Khi Bùi Văn Th vào được bên trong khu Bãi cống thì phát hiện thấy 02 (hai) máy hàn điện, cùng 02 (hai) dây hàn kèm theo máy hàn, ở trong phòng vật tư của kho Bãi công ty Mỹ Ph có cửa đã khóa, không có người trông coi, Bùi Văn Th đã lén lút xâm nhập qua khe hở trên tường phía có cửa vào kho lấy trộm các tài sản trên, rồi lại trèo quay ra qua khe hở trên tường và quay ra chỗ Quách Văn L đang đợi. Khi ra đến nơi Quách Văn L đợi, lúc này, Bùi Văn Th là người lái xe, Quách Văn L ngồi sau và cả hai mang tài sản trộm cắp được đi xuống hướng huyện Yên thủy bán cho người đàn ông không quen biết ở khu vực xóm Re, xã Ân Ng, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình, được tổng số tiền là 1.200.000đ (một triệu hai trăm nghìn đồng). Quá trình giao dịch bán tài sản ăn trộm được ở trên, Bùi Văn Th vẫn là người trực tiếp giao dịch và cầm tiền. Sau khi tiêu thụ được tài sản, Quách Văn L và Bùi Văn Th đi quay về, khi đi đến một Trạm xăng dầu ở khu vực xã Ân Ng, huyện Lạc Sơn, lúc này Quách Văn L là người lái xe, Bùi Văn Th ngồi sau, Quách Văn L rẽ vào để đổ xăng, thì được Bùi Văn Th chia cho Quách Văn L số tiền là 70.000đ (Bảy mươi nghìn đồng) để Quách Văn L dùng đổ xăng xe. Khi cả hai về đến thị trấn Vụ B thì Bùi Văn Th đã mua ma túy của một người đàn ông không quen biết, tại khu vực Cầu Vụ B thuộc thị trấn Vụ B, huyện Lạc Sơn hết số tiền là 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng), rồi Bùi Văn Th và Quách Văn L tìm chỗ vắng vẻ cùng sử dụng ma túy. Sau khi Bùi Văn Th và Quách Văn L cùng sử dụng ma túy xong, thì Bùi Văn Th Và Quách Văn L tự đi về nhà của mình. Từ đó, Quách Văn L không gặp lại Bùi Văn Th lần nào nữa. Số tiền còn lại do tiêu thụ tài sản trộm cắp có được một mình Bùi Văn Th đã dùng tiêu sài vào mục đích cá nhân hết. Sau đó, Bùi Văn Th bỏ trốn khỏi địa phương. Đến ngày 08/11/2022, Bùi Văn Th đã đến Công an huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình đầu thú và khai nhận hành vi trộm cắp tài sản cùng Quách Văn L ngày 11/8/2022. Đến ngày 23/11/2022, Quách Văn L cũng đã đến Công an huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa bình đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản ở trên.

Tại Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 06/KL-HĐĐGTS, ngày 06/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình, kết luận: Giá trị của 02 (hai) Máy hàn điện tử nhãn hiệu OSHIMA màu đen là: 8.000.000đ (tám triệu đồng); 02 (hai) dây cáp hàn màu đen theo máy hàn là: 1.000.000đ (Một triệu đồng); Tấm thép phi 10 hàn dạng vỉ tổng trọng lượng là 27 kg có giá trị là: 189.000đ (một trăm tám chín nghìn đồng). Tổng giá trị tài sản là: 9.189.000đ (chín triệu một trăm tám mươi chín nghìn đồng).

Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng: 01 (một) xe mô tô, biển kiểm soát 28G1-X, nhãn hiệu HONDA, số loại WAVE @, màu sơn xanh – đen. Xe cũ đã qua sử dụng, xe bị vỡ phần cánh yếm bên trái, phần máy móc không kiểm tra. Quá trình điều tra xác định là tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của chị Bùi Thị Th (sinh năm 1989, trú tại xóm Bùi Bái, xã Yên P, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình, là vợ Quách Văn L). Việc L và Th thực hiện hành vi phạm tội chị Thiết không biết và không liên quan, do vậy Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho chủ sở hữu.

Đối với các vật chứng khác, quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy tìm vật chứng nhưng đến nay không thu hồi được.

Về dân sự: Ông Bùi Văn S là đại diện của Công ty TTHH Mỹ Ph có yêu cầu, đề nghị các bị cáo Bùi Văn Th và Quách Văn L bồi thường số tiền tổng là: 9.189.000đ (Chín triệu một trăm tám mươi chín nghìn đồng) là giá trị của các tài sản bị mất trộm ngày 11/8/2022. Hiện nay Bị cáo Bùi Văn Th và Quách Văn L chưa có bồi thường gì.

Trước Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc Sơn, Bùi Văn Th và Quách Văn L đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân, phù hợp với các tài liệu điều tra thu thập được.

Tại bản Cáo trạng số: 04/CT-VKS ngày 16/01/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn đã quyết định truy tố bị cáo Bùi Văn Th về tội: "Trộm cắp tài sản" theo khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự; bị cáo Quách Văn L về tội: "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của người bị hại và các bị cáo thỏa thuận với nhau về mức bồi thường và trách nhiệm bồi thường của các bị cáo. Theo đó, các bị cáo phải liên đới bồi thường cho Công ty TTHH Mỹ Ph số tiền 9.189.000đ (Chín triệu một trăm tám mươi chín nghìn đồng). Phần mỗi bị cáo phải bồi thường bằng nhau là 9.189.000đ : 2 = 4.594.500đ.

Kết thúc phần xét hỏi vị đại diện Viện Kiểm sát công bố bản luận tội. Nội dung bản luận tội đã phân tích tính chất, mức độ, nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo và khẳng định Cáo trạng truy tố các bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; các điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 17, Điều 58 BLHS xử phạt Bùi Văn Th từ 27 đến 30 tháng tù; Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 17, Điều 58 BLHS xử phạt Quách Văn L từ 06 đến 09 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 173 BLHS đối với các bị cáo do không có tính khả thi.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; các Điều 584, 585, 586, 587; 589 Bộ luật Dân sự, Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự công nhận sự thỏa thuận giữa đại diện theo ủy quyền của người bị hại và các bị cáo. Theo đó, các bị cáo phải liên đới bồi thường cho Công ty TTHH Mỹ Ph số tiền 9.189.000đ (Chín triệu một trăm tám mươi chín nghìn đồng). Phần mỗi bị cáo phải bồi thường bằng nhau là 9.189.000đ : 2 = 4.594.500đ.

Các biện pháp tư pháp: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự truy thu số tiền 1.485.000đ là số tiền các bị cáo bán tài sản trộm cắp mà có. Cụ thể: Truy thu bị cáo Quách Văn L 335.000đ; Truy thu bị cáo Bùi Văn Th 335.000đ + 815.000đ = 1.150.000đ.

Đối với người đàn ông và người phụ nữ đã mua tài sản do trộm cắp được mà có của Bùi Văn Th và Quách Văn L, quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xử lý khi có đủ căn cứ.

Về việc Bùi Văn Th và Quách Văn L khai nhận đã sử dụng số tiền do trộm cắp tài sản có được để đi mua và sử dụng chất ma túy. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, rà soát trên địa bàn các địa điểm mua ma túy mà các bị cáo đã khai báo. Đồng thời, Cơ quan quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình đã ra quyết định truy tìm đối tượng. Tuy nhiên, không xác định được địa điểm và đối tượng mà các bị cáo đã khai báo nên đề nghị HĐXX không đề cập xử lý.

Người bào chữa cho bị cáo Quách Văn L thống nhất về tội danh và điều luật áp dụng, đề nghị xử phạt bị cáo 06 tháng tù. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng kinh tế khó khăn, bị cáo thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo đầu thú và giữ vai trò thứ yếu trong vụ án, trình độ học vấn thấp, gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo nên khi quyết định hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Về phần dân sự: người bào chữa cho bị cáo đồng ý theo đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát.

Các bị cáo thừa nhận Cáo trạng, nội dung bản luận tội của Viện kiểm sát đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan. Các bị cáo không tranh luận gì với bản luận tội của Viện Kiểm sát. Tại lời nói sau cùng các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về hòa nhập với cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lạc Sơn, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và phù hợp với các tài liệu chứng cứ được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án nên đã có đủ cơ sở khẳng định: Ngày 11/8/2022, Bùi Văn Th và Quách Văn L do không có tiền tiêu sài cá nhân nên đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản tại khu vực Bãi cống của Công ty TNHH Mỹ Ph thuộc phố Độc L, thị trấn Vụ B, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Lần đầu, Quách Văn L ở tại khu vực Công viên Vụ B để đợi Bùi Văn Th. Bùi Văn Th đã có hành vi lén lút lấy trộm từ Bãi cống của Công ty TNHH Mỹ Ph các tấm thép phi 10 hàn dạng vỉ tổng trọng lượng là 27 kg có giá trị là 189.000đ (một trăm tám chín nghìn đồng). Sau đó Th quay lại chỗ L và cả hai cùng đi bán lấy tiền. Tiếp ngay sau đó Bùi Văn Th bảo Quách Văn L cảnh giới ở khu vực cổng phố Mường Vôi, thị trấn Vụ B dể Th tiếp tục trộm cắp tài sản. Tại khu vực Bãi cống của Công ty TNHH Mỹ Ph, Bùi Văn Th lén lút lấy trộm được 02 (hai) Máy hàn điện tử nhãn hiệu OSHIMA màu đen kèm theo dây cáp hàn theo máy có tổng giá trị là 9.000.000đ (chín triệu đồng). Sau khi lấy được tài sản cả hai cùng nhau đem bán lấy tiền tiêu sài cá nhân. Tổng giá trị tài sản bị xâm hại là: 9.189.000đ (chín triệu một trăm tám mươi chín nghìn đồng). Bùi Văn Th và Quách Văn L là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý nên hành vi của Bùi Văn Th và Quách Văn L phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Điều 173 của Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của các bị cáo: hành vi phạm tội của các bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự trị an trên địa bàn, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Hành vi của các bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật, không những gây thiệt hại về tài sản mà còn gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân. Các bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng các bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy các bị cáo phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về hậu quả do hành vi của mình gây ra.

[4]. Về nhân thân:

Bị cáo Quách Văn L trước khi phạm tội không có tiền án, tiền sự nhưng có nhân thân xẩu, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy.

Bị cáo Bùi Văn Th không có tiền sự; Tiền án: 02 tiền án, Ngày 23/5/2018, bị Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, ngày 08/11/2018 chấp hành xong hình phạt trở về địa phương. Đến ngày 31/5/2020, chưa được xóa án tích đã tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, ngày 06/4/2021, bị Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

[5]. Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: Các bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, sinh ra và lớn lên làm ăn tại địa phương, có nơi cư trú rõ ràng, các bị cáo không chịu tu dưỡng đạo đức, rèn luyện bản thân, để thỏa mãn nhu cầu cá nhân nên đã bất chấp pháp luật, đi vào con đường phạm tội. Tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra các bị cáo đã thành khẩn khai báo thể hiện sự hối hận về hành vi phạm tội của mình; các bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng kinh tế đặt biệt khó khăn, các bị cáo ra đầu thú. Riêng bị cáo Quách Văn L phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo Bùi Văn Th được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, bị cáo Quách Văn L được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

[6]. Hành vi phạm tội của các bị cáo là đồng phạm mang tính chất giản đơn, giữa các bị cáo có sự bàn bạc nhưng không phân công, phân nhiệm vai trò cụ thể nên không thỏa mãn dấu hiệu của tội phạm có tổ chức.

[7]. Về mức hình phạt: HĐXX xét thấy bị cáo Quách Văn L, bị cáo Bùi Văn Th có nhân thân xấu nên cần phải áp dụng một hình phạt tương ứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để dăn đe giáo dục đối với các bị cáo.Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo như đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa mới đủ tác dụng cải tạo các bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung. Về quan điểm của người bào chữa cho bị cáo Quách Văn L HĐXX cân nhắc trong quá trình lượng hình.

[8]. Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai tại phiên tòa đều cho thấy các bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[9]. Trong vụ án này, người đàn ông và người phụ nữ đã mua tài sản do trộm cắp được mà có của Bùi Văn Th và Quách Văn L, quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, cần tiếp tục giao Cơ quan điều tra xử lý khi có đủ căn cứ.

Về việc Bùi Văn Th và Quách Văn L khai nhận đã sử dụng số tiền do trộm cắp tài sản có được để đi mua và sử dụng chất ma túy. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, rà soát trên địa bàn các địa điểm mua ma túy mà các bị cáo đã khai báo. Đồng thời, Cơ quan quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình đã ra quyết định truy tìm đối tượng. Tuy nhiên, không xác định được địa điểm và đối tượng mà các bị cáo đã khai báo nên HĐXX không đề cập xử lý.

[10]. Về trách nhiệm dân sự:

Các bị cáo và người đại diện theo ủy quyền của người bị hại thỏa thuận với nhau về việc các bị cáo phải liên đới bồi thường cho Công ty TTHH Mỹ Ph số tiền 9.189.000đ (Chín triệu một trăm tám mươi chín nghìn đồng); Phần mỗi bị cáo phải bồi thường bằng nhau là 9.189.000đ : 2 = 4.594.500đ. Xét thấy, sự thỏa thuận của các đương sự là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội nên HĐXX chấp nhận.

[11]. Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 (một) xe mô tô, biển kiểm soát 28G1-X, nhãn hiệu HONDA, số loại WAVE @, màu sơn xanh – đen. Xe cũ đã qua sử dụng, xe bị vỡ phần cánh yếm bên trái, phần máy móc không kiểm tra. Quá trình điều tra xác định là tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của chị Bùi Thị Th. Việc L và Th thực hiện hành vi phạm tội chị Thiết không biết và không liên quan, do vậy Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Sau khi nhận lại tài sản, chị Thiết không có ý kiến gì và việc xử lý vật chứng nêu trên của cơ quan điều tra đúng quy định của pháp luật, nên HĐXX không xem xét.

[12]. Các biện pháp tư pháp:

Về số tiền 285.000đ các bị cáo bán các thanh sắt và số tiền 1.200.000đ các bị cáo bán máy hàn điện: Đây là tiền các bị cáo bán tài sản trộm cắp mà có nên cần truy thu nộp ngân sách Nhà nước. Trong đó: số tiền 70.000 đ bị cáo Bùi Văn Th đưa cho bị cáo Quách Văn L để đổ xăng và số tiền 600.000đ bị cáo Bùi Văn Th mua ma túy là số tiền các bị cáo cùng sử dụng nên cần truy thu mỗi bị cáo (70.000đ + 600.000đ) : 2 = 335.000đ; Số tiền còn lại là 815.000đ bị cáo Bùi Văn Th giữ tiêu sài riêng nên cần truy thu bị cáo Bùi Văn Th khoản tiền này. Cụ thể: Truy thu bị cáo Quách Văn L 335.000đ; Truy thu bị cáo Bùi Văn Th 335.000đ + 815.000đ = 1.150.000đ.

[13]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

[14]. Các bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Bùi Văn Th và bị cáo Quách Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản” 2. Về hình phạt:

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; các điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 58 BLHS xử phạt Bùi Văn Th 27 (Hai mươi bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 08/11/2022. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 58 BLHS xử phạt Quách Văn L 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 23/11/2022. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về dân sự:

Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự; các Điều 584, 585, 586, 587; 589 Bộ luật Dân sự, Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự: Công nhận sự thỏa thuận tại phiên tòa giữa bị cáo Bùi Văn Th, bị cáo Quách Văn L và đại diện theo ủy quyền của người bị hại. Cụ thể: Bị cáo Bùi Văn Th bồi thường số tiền 4.594.500 đ (Bốn triệu năm trăm chín mươi tư nghìn năm trăm đồng) cho Công ty TNHH Mỹ Ph; Bị cáo Quách Văn L bồi thường số tiền 4.594.500 đ (Bốn triệu năm trăm chín mươi tư nghìn năm trăm đồng) cho Công ty TNHH Mỹ Ph.

Kể từ ngày người được yêu cầu thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án số tiền nêu trên người phải thi hành án không trả được, thì hàng tháng còn phải trả số tiền lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

4. Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 Truy thu bị cáo Bùi Văn Th số tiền 1.150.000 (Một triệu một trăm năm mươi nghìn) đồng, bị cáo Quách Văn L số tiền 335.000 (Ba trăm ba mươi lăm nghìn) đồng nộp vào ngân sách Nhà nước.

5. Án phí hình sự sơ thẩm:

Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Bùi Văn Th, Quách Văn L mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 229.725đ ( Hai trăm hai mươi chín nghìn bảy trăm hai mươi lăm đồng) án phí dân sự. Tổng cộng mỗi bị cáo phải chịu 429.725đ (Bốn trăm hai mươi chín nghìn bảy trăm hai mươi lăm đồng) án phí.

6. Quyền kháng cáo:

Áp dụng Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 05/2023/HS-ST

Số hiệu:05/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về