TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁT HẢI, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 05/2023/HS-ST NGÀY 12/04/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 12 tháng 4 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng và tại điểm cầu thành phần Trại tạm giam Công an thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai theo hình thức trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 06/2023/TLST-HS ngày 06 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2023/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 3 năm 2023, đối với bị cáo:
Lê Quang H, sinh ngày 08 tháng 5 năm 1989 tại thành phố Hải Phòng; nơi cư trú: Thị trấn C, huyện C, thành phố Hải Phòng; nghề ngH: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 01/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Lê Thanh H và bà Vũ Thị C; chưa có vợ, con; tiền sự: Không; tiền án: 06 tiền án (chưa xóa án tích), Bản án số 37/2009/HSST ngày 04/12/2009 của Tòa án nhân dân huyện Cát Hải xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Trộm cắp tài sản, Bản án số 10/2010/HSST ngày 29/6/2010 của Tòa án nhân dân huyện Cát Hải xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, Bản án số 12/2012/HSST ngày 22/5/2012 của Tòa án nhân dân huyện Cát Hải xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, Bản án số 30/2013/HSST ngày 26/9/2013 của Tòa án nhân dân huyện Cát Hải xử phạt 30 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, Bản án số 07/2016/HSST ngày 08/6/2016 của Tòa án nhân dân huyện Cát Hải xử phạt 36 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, Bản án số 06/2019/HS-ST ngày 24/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện Cát Hải xử phạt 38 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; bị tạm giữ ngày 21/01/2023 đến ngày 27/01/2023 chuyển tạm giam; có mặt.
- Bị hại: Bà Ngô Thị Đ, sinh năm 1944; nơi cư trú: Thị trấn C, huyện C, thành phố Hải Phòng; vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 01 giờ ngày 21/01/2023, H đi chơi về qua nhà bà Ngô Thị Đ tại tổ dân phố 7, thị trấn Cát Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng thấy cổng không khóa nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. H đi vào trong nhà bà Đ cửa chính không khóa, thấy bà Đ đang nằm ngủ trên giường, trên mặt bàn có 01 ví màu cam. H lén lút mở chiếc ví màu cam, lấy toàn bộ tiền bên trong và để chiếc ví lại. H tiếp tục lấy tiền trên ban thờ và cất toàn bộ số tiền lấy được vào trong túi quần, về nhà đếm được 11.700.000 đồng. Đến khoảng 09 giờ cùng ngày, biết hành vi của mình không thể trốn tránh được, H đã đến Công an huyện Cát Hải để đầu thú và giao nộp toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt.
Bị hại là bà Ngô Thị Đ khai: Buổi sáng ngày 21/01/2023, bà phát hiện bị mất trộm tài sản bao gồm số tiền 1.000.000 đồng trên ban thờ và số tiền 10.700.000 đồng trong chiếc ví da để trong phòng ngủ, tổng cộng là 11.700.000 đồng. Bà đã trình báo sự việc đến Công an huyện Cát Hải để giải quyết.
Tại bản Cáo trạng số 05/CT-VKS ngày 02/03/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Lê Quang H về tội "Trộm cắp tài sản" theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về nội dung bản cáo trạng và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Về hình phạt: Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; Điều 38; điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt Lê Quang H từ 42 đến 48 tháng tù. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo không có tài sản riêng, hoàn cảnh gia đình khó khăn.
- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm, nên đề nghị không xem xét.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận đồng thời thừa nhận luận tội của Viện kiểm sát về tội danh cũng như mức hình phạt là đúng. Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, ăn năn, hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
- Về tố tụng:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Cát Hải, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng trong vụ án, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị hại vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Sự vắng mặt của bị hại không gây trở ngại cho việc xét xử. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị hại theo quy định tại khoản 1 Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Về tội danh và khung hình phạt:
[3] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, nội dung bản cáo trạng, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Khoảng 01 giờ ngày 21/01/2023, tại tổ dân phố 7, thị trấn Cát Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng, Lê Quang H đã có hành vi lén lút trộm cắp số tiền 11.700.000 đồng của bà Ngô Thị Đ nên đủ cơ sở kết luận bị cáo H phạm tội Trộm cắp tài sản. Bị cáo có 06 tiền án về tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích mà lại thực hiên hành vi phạm tội do lỗi cố ý nên lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết định khung hình phạt là tái phạm nguy hiểm, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng đối với bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có cơ sở và đúng quy định của pháp luật.
[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm quyền sở hữu của công dân được pháp luật bảo vệ, mà còn gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, bị cáo đã lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của chủ sở hữu, dùng thủ đoạn lén lút để chiếm đoạt tài sản. Bị cáo có 06 tiền án về tội trộm cắp tài sản, chứng tỏ không có ý thức sửa chữa sai lầm, coi thường pháp luật, khó giáo dục tại cộng đồng. Vì vậy, cần xét xử bị cáo một hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo khỏi cộng đồng mới đảm bảo tính răn đe, cũng như giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, sau khi phạm tội đã ra đầu thú và bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có việc làm, không có thu nhập ổn định. Vì vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp.
[8] Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Tài sản mà bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho bị hại, bị hại không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật..
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173, Điều 38, điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Quang H 42 (bốn mươi hai) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ 21/01/2023.
Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Về quyền yêu cầu thi hành án: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 05/2023/HS-ST
Số hiệu: | 05/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cát Hải - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/04/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về