Bản án về tội trộm cắp tài sản số 05/2022/HS-ST

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH CỬU, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 05/2022/HS-ST NGÀY 10/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 179/2021/HSST ngày 30 tháng 12 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 170/2021/QĐXXST-HS ngày 31/12/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phụng Thanh H; Tên gọi khác : M; S inh ngày 31 tháng 8 năm 1996; Tại tỉnh Ninh Thuận; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn V, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận; Nơi cư trú: tổ 7, ấp 5, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Nai; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Chăm; Tôn giáo: Bà Ni; Nghề nghiệp : Lao động tự do; Trình độ học vấn: Lớp 06/12; Họ tên cha: Phụng T, sinh năm 1969; Họ tên mẹ: Sử Thị T1, sinh năm 1970; G ia đình bị cáo có 02 chị em, bị cáo là con út trong gia đình; có vợ là Lưu Thị Thu V1, sinh năm 1998 và có 01 con sinh năm 2020.

Tiền án: Ngày 12/4/2016, bị Toà án nhân dân huyện Vĩnh Cửu xử phạt 02 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, buộc bồi thường cho các bị hại tổng số tiền 6.915.166 đồng; 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 345.750 đồng án phí dân sự sơ thẩm tại bản án số 31/2016/HSST. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/8/2017 và đóng án phí ; chưa thi hành các khoản bồi thường dân sự.

Tiền sự: Ngày 18/9/2020, bị Toà án nhân dân huyện Vĩnh Cửu áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 16 tháng, chấp hành xong ngày 31/7/2021.

Nhân thân: Ngày 23/12/2014, bị Toà án nhân dân huyện Vĩnh Cửu xử phạt 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã được xoá án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 27/10/2021 theo Lệnh số 2569/L ngày 04/9/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Cửu. Hiện bị cáo đang tạm giam tại Cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam Công an huyện Vĩnh Cửu.

* Bị hại: Chị Dương Huỳnh N, sinh năm 1998.

Địa chỉ: ấp 5, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Nai. ( Bị cáo có mặt; bị hại vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 21/8/2021, chị Dương Huỳnh N, sinh năm 1998, ngụ ấp 5, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Nai tham gia trực chốt phong tỏa phòng chống dịch covid 19 tại tổ 6, ấp 5, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Nai và cắm sạc pin 01 điện thoại di động hiệu Iphone 10 XS Max ở trên ghế rồ i sang võng kế bên nằm nghỉ. Lúc này, Lê Phúc H1, sinh năm 2007 ngụ ấp 5, xã T, huyện V điều khiển xe mô tô hiệu Dream (không rõ biển số) của H1 chở Phụng Thanh H đ i ngang chốt kiểm dịch thì H nhìn thấy chiếc điện thoại Iphone 10 XS Max cắm sạc pin không có người trông coi nên nảy sinh ý đ ịnh lấy trộm. H nói H1 dừng xe đợi rồi đi bộ đến rút điện thoại Iphone 10 XS Max bỏ vào túi quần rồi đi ra đưa điện thoại cho H1 xem sau đó điều khiển xe chở H1 đi tìm người mở mật khẩu điện thoại vừa trộm cắp. Trên đường đi, H1 hỏi H về nguồn gốc điện thoại thì H nói mượn của bạn. H chở H1 đến phòng trọ của Lộ Trung N1, sinh năm 1994 ngụ ấp 5, xã T để tìm Trần Thiên L, sinh năm 1992 ngụ ấp 5, xã T nhờ L mở khoá điện thoại nhưng không được. H nhờ L tháo sim ra, để sim lại cho L rồi cầm điện thoại đ i ra chỗ H1 đang đợi nhưng không thấy H1 đâu nên điều khiển xe đi tìm H1. Khi H quay lại chốt kiểm dịch thì gặp lực lượng công an xã Thạnh Phú tuần tra mời về làm việc. Tại cơ quan công an H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

* Tang vật, tài sản tạm giữ:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 10 XS Max màu vàng.

* Tại kết luận định giá tài sản số: 69/KL-ĐGTS ngày 26 tháng 8 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Vĩnh Cửu xác định: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 10 XS Max trị giá 9.000.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Vĩnh Cửu.

* Về xử lý tang vật, tài sản tạm giữ:

- Cơ quan Cảnh sát điều tra đã giao trả chị Dương Huỳnh N điện thoại di động hiệu Iphone 10 XS Max.

* Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Chị Dương Huỳnh N đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu về dân sự.

Tại bản cáo trạng số: 10/CT-VKSVC ngày 29/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Phụng Thanh H để xét xử về tộ i “Trộm cắp tài sảntheo khoản 1, Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, Kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu, bị cáo không có ý kiến gì về quyết đ ịnh truy tố của Viện kiểm sát.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

- Xử phạt bị cáo Phụng Thanh H từ 16 đến 18 tháng tù.

- Buộc bị cáo chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo nhận thức hành vi của mình là sai, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Vĩnh Cửu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu, Kiểm sát viên trong quá trình đ iều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết đ ịnh của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, lời khai của người làm chứng và các chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra, thể hiện:

Khoảng 19 giờ ngày 21/8/2021 tại tổ 6, ấp 5, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Nai, Phụng Thanh H đã trộm cắp 01 điện thoại di động hiệu Iphone 10 XS Max của chị Dương Huỳnh N trị giá 9.000.000 đồng.

[3]. Do vậy, hành vi của bị cáo H đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự, như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố là có căn cứ và đúng pháp luật.

[4]. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật công nhận và bảo vệ, gây mất an ninh trật tự tại đ ịa phương. Bị cáo lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu không có người trông coi, đã lén lút thực hiện hành vi trộm cắp. Bản thân bị cáo đã bị tòa án xét xử nhiều lần về tộ i trộm cắp tài sản, trong khi đó bị cáo vẫn đang còn tiền án về tội trộm cắp tài sản và tiền sự về sử dụng ma túy, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà tiếp tục phạm tội. Điều đáng chê trách b ị cáo trong vụ án này là cả nước đang căng mình phòng chống dịch, bị hại đang thực hiện nhiệm vụ tuyến đầu phòng chống dịch, nhưng bị cáo cũng không bỏ qua mà lại thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của bị hại. Hành vi của bị cáo thể hiện tính liều lĩnh, coi thường pháp luật, nên cần có mức án nghiêm tương xứng với tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo khi lượng hình. Vì vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[5]. Xét về nhân thân, cùng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo có tình tiết tăng nặng là tái phạm theo điểm h khoản 1, Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hố i cải, tại phiên tòa bị cáo khai do sợ điện thoại có định vị, nên b ị cáo có ý định quay lại để trả cho bị hại, khi bị cáo đi đến chốt kiểm dịch thì lực lượng Công an mời bị cáo về trụ sở làm việc và bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi của mình, tài sản đã thu hồ i và trả lại cho bị hại. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[8]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[9]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo: Phụng Thanh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1, Điều 173; điểm s, khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Điều 331; Điều 333; Điều 336; Đ iều 337; Điều 262 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Xử phạt bị cáo Phụng Thanh H 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/10/2021 xét.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không

2. Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/ 2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại vắng mặt tại phiên tòa nên được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ./.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

95
  • Tên bản án:
    Bản án về tội trộm cắp tài sản số 05/2022/HS-ST
  • Số hiệu:
    05/2022/HS-ST
  • Cấp xét xử:
    Sơ thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hình sự
  • Ngày ban hành:
    10/01/2022
  • Từ khóa:
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 05/2022/HS-ST

Số hiệu:05/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về