Bản án về tội trộm cắp tài sản số 05/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BÌNH LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 05/2022/HS-ST NGÀY 23/02/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 02 năm 2022 tại Hội trường xét xử, Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 74/2021/TLST-HS ngày 31/12/2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Minh H (Nguyễn Văn H), sinh năm 1979, địa chỉ: Không có nơi cư trú ổn định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 01/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: N; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt N; con ông Nguyễn Văn Đông (đã chết) và bà Đặng Thị Lạc. Vợ: Cao Thị Khonl, sinh năm 1988 và KoLi Sa Ndri, sinh năm 1989 (đều không đăng ký kết hôn); có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2009.

Tiền án; tiền sự: 02 - Tại bản án số: 83/2013/HS-ST ngày 16/8/2013 của Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh xử phạt Nguyễn Minh H 03 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Ngày 23/6/2016, H chấp hành xong hình phạt tù. Ngày 01/3/2019 nộp xong án phí.

- Tại bản án số: 36/2019/HS-ST ngày 25/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh xử phạt Nguyễn Minh H 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

Ngày 07/6/2019 nộp xong án phí. Ngày 13/12/2019 H chấp hành xong hình phạt tù.

Về nhân thân:

- Tại bản án số: 67/HSST ngày 23/7/1998 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xử phạt Nguyễn Minh H 06 năm tù về tội Trộm cắp tài sản. Ngày 12/12/2002, H chấp hành xong hình phạt tù.

- Tại bản án số: 40/2008/HSST ngày 28/3/2008 của Tòa án nhân dân thị xã Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh xử phạt Nguyễn Minh H 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, H đã chấp hành xong.

- Tại bản án số: 61/2011/HSST ngày 07/6/2011 của Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh xử phạt Nguyễn Minh H 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Ngày 26/01/2012, H chấp hành xong hình phạt tù. Ngày 17/8/2011 nộp xong án phí.

Bị cáo bị bắt từ ngày 07/9/2021 và bị tạm giam tới nay. Bị hại: Lê Văn N, sinh năm 1992 (vắng mặt) Trần Thị T, sinh năm 1955 (vắng mặt) Cùng địa chỉ: Tổ 1, ấp TA, xã TL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Văn Đắc Q, sinh năm 1983, Địa chỉ: Ấp HT, xã LT, huyện LN, tỉnh Bình Phước. (vắng mặt) Trần Văn H, sinh năm 1972, địa chỉ: Tổ 2, ấp TH, xã TL, thị xã BL, tỉnh Bình Phước. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Minh H (tên gọi khác Nguyễn Văn H) là người không có hộ khẩu thường trú và sống lang thang, không có nơi ở ổn định. Khoảng 05 giờ 15 phút, ngày 24/8/2021, H điều khiển xe mô tô kiểu dáng Dream, biển số 93F7-9581 đi từ tổ 01, ấp Hưng Thịnh, xã Lộc Thịnh, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước đến khu vực xã Thanh Lương, thị xã Bình Long. Khi đi qua nhà bà Trần Thị T tại tổ 01, ấp Thanh An, xã Thanh Lương, thị xã Bình Long, H nhìn thấy nhà bà T không khóa cửa, không có người trông coi nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. H giấu xe mô tô trong vườn điều gần đó rồi đi bộ vào phòng ngủ thứ nhất nhà bà T, lén lút lấy 01 chiếc điện thoại Nokia 105 màu đen của bà T (bên trong có 02 sim điện thoại Viettel số thuê bao 0353.828981; 0355157552) đang để trên nóc tủ lạnh. H tiếp tục đi qua phòng ngủ thứ hai, nhìn thấy anh Lê Văn N (con trai bà T) đang ngủ, trên giường có 01 chiếc điện thoại OPPO Reno 5 màu đen, ốp lưng bằng nhựa dẻo của anh N (bên trong có 02 sim điện thoại Viettel số thuê bao 0974.243646; 0971.066123) đang sạc pin trên giường gần vị trí anh N nằm ngủ, rút dây sạc rồi cất cả 02 điện thoại vừa chiếm đoạt được vào túi quần đang mặc, sau đó ra vườn điều lấy xe mô tô bỏ đi.

Lúc này, anh Lê Văn N phát hiện mất điện thoại nên đi tìm thì nhìn thấy H đang điều khiển xe mô tô phía trước, nghĩ H là người chiếm đoạt điện thoại của mình nên anh N cầm một khúc cây tầm vông đuổi theo đánh trúng H. H bị ngã, bỏ lại xe mô tô và chạy bộ về xã Lộc Thịnh, huyện Lộc Ninh. Do điện thoại của anh N cài mật khẩu khóa màn hình nên H đã đưa đến cửa hàng điện thoại Hoàng Phúc của anh Lê Hoàng Phúc để mở khóa màn hình. Cơ quan điều tra đã thu hồi được chiếc điện thoại trên.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 43/KL-HĐĐGTS ngày 07/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Bình Long kết luận: “01 (một) điện thoại nhãn hiệu OPPO, dòng máy Reno 5, Ram 8Gb, bộ nhớ trong 128gb, màu đen, mua mới vào tháng 3/2021, trị giá 4.000.000đ; 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Nokia, dòng máy 105, màu đen, mua mới vào tháng 4/2021, trị giá 200.000đ; 01 (một) sim điện thoại có số thuê bao 0353828981 của nhà mạng Viettel giá 60.000đ; 01 (một) sim điện thoại có số thuê bao 0355157522 của nhà mạng Viettel giá 60.000đ; 01 (một) sim điện thoại có số thuê bao 0974243646 của nhà mạng Viettel giá 60.000đ;

01 (một) sim điện thoại có số thuê bao 0971066123 của nhà mạng Viettel giá 60.000đ; 01 (một) ốp lưng bằng nhựa dẻo trong suốt của điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, dòng máu Reno 5 giá 50.000đ; 01 (một) miếng dán cường lực mặt cảm ứng điện thoại nhãn hiệu OPPO, dòng máy Reno 5 giá 30.000đ. Tổng cộng 4.520.000đ (bốn triệu năm trăm hai mươi ngàn đồng)”.

Bản Cáo trạng số: 02/CT – VKS ngày 29/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bình Long truy tố bị cáo Nguyễn Minh H về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Minh H thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội lén lút chiếm đoạt tài sản là điện thoại di động của bà Trần Thị T và anh Lê Văn N như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bình Long luận tội bị cáo: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Minh H (Nguyễn Văn H) theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Bị cáo thành khẩn khai báo, nhân thân xấu, đề nghị Hội đồng xét xử Tên bị cáo phạm tội Trộm cắp tài sản; áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H mức án từ 12 đến 18 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Trong quá trình Điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các chứng cứ tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, kiểm sát viên thu thập; các tài liệu chứng cứ do bị cáo và những người tham gia tố tụng khác cung cấp đều phù hợp với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về chứng cứ. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc kH nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Tại phiên tòa hôm nay người bị hại vắng mặt nhưng xét thấy việc vắng mặt của bị hại không ảnh hưởng tới việc xét xử nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự quyết định xét xử vắng mặt người bị hại.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Minh H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng mà đại diện Viện kiểm sát đã công bố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác mà cơ quan điều tra đã thu thập về thời gian địa điểm và cách thức thực hiện tội phạm, đã được thẩm tra tại phiên tòa. Thể hiện: Rạng sáng ngày 24 tháng 8 năm 2021 lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu, Nguyễn Minh H lén lút đột nhập vào nhà chiếm đoạt của bà Trần Thị T và anh Lê Văn N các tài sản gồm: một điện thoại Nokia 105, một điện thoại OPPO Reno 5 với tổng giá trị là 4.520.000 đồng (bốn triệu năm trăm hai mươi nghìn đồng). Hành vi này đã phạm vào tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại điều 173 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bình Long đã truy tố.

Hành vi của bị cáo là lợi dụng lúc rạng sáng, mọi người trong nhà anh N, bà T còn đang ngủ, không khóa cửa nhà nên lén lút đột nhập vào để Trộm cắp tài sản. Bằng hành vi này H đã trộm cắp được hai điện thoại của bà T và anh N. Hành vi này đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại được pháp luật bảo vệ, gây ra tình trạng mất an ninh trật tự tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, nhận thức rõ hành vi của mình là phạm tội nhưng vì động cơ tư lợi nên vẫn cố tình thực hiện, mục đích để bán lấy tiền tiêu xài.

[3] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, nhiều lần bị xét xử về hành vi chiến đoạt tài sản, trong đó có hai tiền án chưa được xóa án tích nhưng bị cáo không ăn năn hối cải, không lấy đó làm bài học kinh nghiệm để tu dưỡng bản thân thành người có ích cho xã hội mà ngược lại bị cáo tiếp tục phạm tội nên cần có hình phạt nghiêm khắc để răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; mẹ của bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo có hai tiền án nhưng tiền án thứ nhất là tình tiết định tội của tiền án thứ hai nên với lần phạm tội này bị cáo chỉ phải chịu tình tiết tăng nặng là Tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Về phần dân sự: Đã được giải quyết xong nên tòa án không xét.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với điện thoại nhãn hiệu OPPO, dòng máy Reno 5 màu đen; 01 vỏ hộp điện thoại Oppo Reno 5 là tài sản của anh Lê Văn N, Cơ quan điều tra đã xử lý trả lại cho anh N - Đối với xe mô tô kiểu dáng Dream, gắn biển số 93F7-9581 H dùng làm phương tiện phạm tội là xe do H mượn của anh Văn Đắc Q. Kết quả tra cứu phương tiện thể hiện: biển số 93F7-9581 là biển số được cấp cho xe mô tô hiệu LISOHAKA, kiểu dáng Wave do anh Phạm Xuân Đồng sở hữu. Qua xác minh, anh Đồng cho biết xe của anh đã bị mất trộm vào năm 2015 tại huyện Hớn Quản, chưa tìm lại được. Vì vậy biển số xe 93F7-9581 giao cho Công an huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước xử lý theo quy định.

Tại Bản kết luận giám định số: 196/2021/GĐ-KT ngày 06/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước thể hiện, xe mô tô tạm giữ trong vụ án có số khung là NJ100200000240, số máy LC1P50FMG-3*Y000?40?* (dấu “?” là chữ, số không xác định được). Làm việc với anh Văn Đắc Q, anh Quang khai xe mô tô trên là do Quang mượn của anh Trần Văn H rồi cho H mượn. Anh Hĩnh khai nhận mua xe mô tô trên vào khoảng tháng 4/2021 của một người không rõ nhân thân, không làm giấy tờ mua bán, không có giấy chứng nhận đăng ký. Xác định đây là xe không rõ nguồn gốc, không xác định được số khung, số máy cụ thể nên tịch thu sung công quỹ nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại Nokia 105 màu đen của bà T, bên trong có 02 sim điện thoại Viettel số thuê bao 0353.828981; 0355157552, H đã làm rơi trong lúc bỏ chạy;

02 sim điện thoại Viettel số thuê bao 0974.243646; 0971.066123 H đã vứt ở đâu không nhớ nên không thu hồi được nên không xử lý.

- 01 áo sơ mi ngắn tay, màu trắng nhãn hiệu “MR.LT” đã cũ là tài sản của H nên trả lại cho H.

Luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bình Long có một phần phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận một phần.

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tên bố bị cáo Nguyễn Minh H (Nguyễn Văn H) phạm tội Trộm cắp tài sản.

2. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H (Nguyễn Văn H) 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/9/2021.

3. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Minh H (Nguyễn Văn H) phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy một xe mô tô không rõ nguồn gốc, có số khung NJ100200000240, số máy LC1P50FMG-3*Y000?40? (trong đó dấu “?” là chữ, số không xác định được).

- Trả cho Nguyễn Minh H 01 áo sơ mi ngắn tay màu trắng nhãn hiệu “MR.LT” đã cũ.

- Giao biển số xe 93F7-9581 cho Công an huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước xử lý theo thẩm quyền.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 05/2022/HS-ST

Số hiệu:05/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bình Long - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về