Bản án về tội trộm cắp tài sản số 04/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHƯỚC, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 04/2023/HS-ST NGÀY 13/01/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 01 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục rút gọn vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 40/2022/TLST-HS ngày 30 tháng 12 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2023/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 01 năm 2023 đối với:

* Bị cáo: Trần Thanh S, sinh ngày 22/12/1998 tại tỉnh Long An; trú tại: số 111/3/33 Huỳnh Văn Gấm, khu phố B, Phường 6, thành phố T, tỉnh Long An; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lý Thành K, sinh năm 1956 và bà Trần Thị L, sinh năm 1970; bị cáo chưa có vợ, con;

+ Tiền án: Bị cáo có 01 tiền án: Ngày 09/6/2021, tại bản án hình sự sơ thẩm số 11/2021/HS-ST, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Long An xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt vào ngày 14/7/2022, chưa được xóa án tích.

+ Tiền sự: Bị cáo có 02 tiền sự: Ngày 21/11/2022, bị cáo bị Chủ tịch UBND Phường 6, thành phố Tân An, tỉnh Long An ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 380/QĐ-XPHC với số tiền 1.500.000 đồng do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chưa chấp hành quyết định. Đồng thời, có quyết định áp dụng biện pháp quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy tại địa phương, thời hạn 01 năm, chưa chấp hành xong.

Bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam ngày 07/12/2022 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang.

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

* Bị hại: Chị Võ Thị Phi Y, sinh ngày 19/02/1989 (vắng mặt).

Trú tại: ấp Q, xã H, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

* Người làm chứng:

+ Chị Lê Thị Thu T, sinh ngày 25/10/1985 (vắng mặt).

Trú tại: ấp Q, xã H, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

+ Anh Phạm Tấn N, sinh ngày 19/4/1992 (vắng mặt).

Trú tại: ấp Q, xã H, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 12 giờ ngày 07/12/2022, Trần Thanh S đi bộ ngang cửa hàng “Ngọc Linh” do chị Lê Thị Thu T, sinh năm 1985 tại ấp P, xã H, huyện T, tỉnh Tiền Giang làm chủ thì phát hiện trong cửa hàng có để nhiều xe mô tô. S đến ngồi ghế đá trước cửa hàng để quan sát và phát hiện xe mô tô 02 bánh biển số 63B8 – X do chị Võ Thị Phi Y, sinh năm 1989, ĐKTT: Ấp P, xã H, huyện T, tỉnh Tiền Giang đứng tên sở hữu đang dựng bên trong cửa hàng, trên xe có ghim sẵn chìa khóa. Khi phát hiện bên trong cửa hàng không có người nên S lén lút vào trong dẫn xe ra ngoài định chạy đi thì bị chị T, chị Y phát hiện và truy hô, S bỏ xe lại và chạy đi. Nghe tiếng truy hô nên anh Phạm Tấn N, sinh năm 1994, ngụ cùng ấp đuổi theo bắt giữ S lại và trình báo sự việc đến Công an xã Tân Hòa Thành.

Tiếp nhận tố giác, Công an xã Tân Hòa Thành đến lập hồ sơ và biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trần Thanh S.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 433/KL-HĐĐGTS ngày 09/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tân Phước xác định giá trị còn lại của xe mô tô trên là 8.600.000 đồng.

Thu giữ vật chứng trong vụ án:

- 01 (một) giấy đăng ký và xe mô tô 02 bánh biển số 63B8–X, nhãn hiệu Honda, màu đỏ đen bạc. Số máy: HC12E7129932, số khung:

RLHHC1252FY129912. Qua điều tra xác định, xe mô tô này do chị Võ Thị Phi Y, sinh năm 1989, ĐKTT: Ấp P, xã H, huyện T, tỉnh Tiền Giang đứng tên sở hữu. Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại giấy đăng ký và xe cho chị Y xong.

- 01 (một) chiếc áo sơ mi dài tay, vải, nam giới, size XL. Chiều cao từ trên cùng cổ áo đến dưới cùng vạt áo là 75 cm. Chiều ngang 02 bên nách áo là 50 cm. Chiều dài từ vai áo đến dưới cùng ống tay áo là 60 cm. Chiếc áo màu đen không nhãn hiệu.

- 01 (một) chiếc quần lửng, nam giới, vải kaki, màu nâu đỏ, lưng thun. Chiều dài từ lưng cùng lưng quần đến dưới cùng ống quần là 52 cm. Chiều ngang từ mép túi quần bên trái sang mép túi quần bên phải là 50 cm. Quần có 02 túi phía trước và 01 túi phía sau - 01 (một) nón bảo hiểm, loại nón người lơn, nón nửa đầu, màu trắng. Trên nón có dòng chữ “FE CREDIT – VAY TIÊU DÙNG TÍN CHẤP”. Bên trong lót vải màu nâu đen, mỏ nón màu đen.

- 01 (một) đôi dép lào bằng nhựa màu xanh. Kích thước (27 x 10 x 08) cm. Tất cả các vật chứng trên đều đã qua sử dụng. Đây là trang phục mà S đã mặc khi thực hiện hành vi trộm cắp.

- 01 (một) thẻ nhớ MICRO SD lưu trữ 02 file video clips ghi lại hình ảnh vụ trộm.

Đối với khẩu trang y tế màu trắng được Trần Thanh S sử dụng khi thực hiện hành vi trộm cắp xe và đã bị rơi mất khi S bị người dân bắt giữ. Cơ quan điều tra đã tổ chức truy tìm nhưng không thu hồi được.

Về xử lý vật chứng:

Viện kiểm sát nhân dân ra quyết định chuyển các vật chứng gồm: quần, áo, nón và dép có đặc điểm nêu trên đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Phước chờ xử lý theo quy định.

Riêng đối với thẻ nhớ MICRO SD lưu trữ 02 file video clips ghi lại hình ảnh vụ trộm trên được lưu theo hồ sơ vụ án.

* Người bị hại: Chị Võ Thị Phi Y vắng mặt có lời khai: Khoảng 11 giờ ngày 07/12/2022, chị điều khiển xe mô tô 02 bánh biển số 63B8 – X đến nhà chị chồng của chị tên Lê Thị Thu T để chơi. Khi đến nơi chị dựng xe mô tô 02 bánh biển số 63B8 – X trong cửa hàng kinh doanh la phong của chị T cách ngạch cửa ra vào khoảng 01m và còn để chìa khóa trên xe mô tô 02 bánh biển số 63B8 – X. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày chị T phát hiện một nam thanh niên (sau này chị mới biết là bị cáo Trần Thanh S) đang lén lút trộm xe mô tô 02 bánh biển số 63B8 – X của chị đang dẫn ra lộ 866 định chạy đi thì bị chị T và chị truy hô, S bỏ xe lại và chạy đi. Nghe tiếng truy hô nên anh Phạm Tấn N đuổi theo bắt giữ S lại và trình báo sự việc đến Công an xã Tân Hòa Thành.

Ngày 27/12/2022 chị Y đã nhận lại xe mô tô 02 bánh biển số 63B8 – X nên chị không yêu cầu bồi thường thiệt hại gì thêm.

* Người làm chứng:

1. Chị Lê Thị Thu T vắng mặt có lời khai: Khoảng 11 giờ ngày 07/12/2022, chị Y điều khiển xe mô tô 02 bánh biển số 63B8 – X đến nhà chị chơi. Khi đến chị Y dựng xe mô tô 02 bánh biển số 63B8 – X trong cửa hàng kinh doanh la phong của gia đình chị cách ngạch cửa ra vào khoảng 01m và còn để chìa khóa trên xe mô tô 02 bánh biển số 63B8 – X. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày chị phát hiện một nam thanh niên (sau này chị mới biết là bị cáo Trần Thanh S) đang lén lút trộm xe mô tô 02 bánh biển số 63B8 – X của chị Y đang dẫn ra lộ 866 định chạy đi thì bị chị và chị Y truy hô, S bỏ xe lại và chạy đi. Nghe tiếng truy hô nên anh Phạm Tấn N đuổi theo bắt giữ S lại và trình báo sự việc đến Công an xã Tân Hòa Thành.

2. Anh Phạm Tấn N vắng mặt có lời khai: Khoảng 12 giờ 07/12/2022 anh đang ngủ trưa tại của hàng của anh cách cửa hàng của chị T khoảng 15m thì nghe chi T truy hô “Nó mới lấy xe đi kìa” anh trong cửa hàng đi ra nhìn theo hướng của chị T (hướng cầu vượt) thấy trên đường có duy nhất 01 thanh niên (sau này anh mới biết là bị cáo Trần Thanh S). Anh kêu chị T đi về nhà, còn anh lấy xe mô tô chạy theo bị cáo S, khi còn cách khoảng 30m thì anh la lên “Mày làm gì lấy xe của người ta” thì bị cáo S băng qua đường bỏ chạy, anh và người dân xung quanh chạy theo giữ bị cáo S lại và giao cho cơ quan công an.

Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 01/QĐ-VKSTP ngày 30 tháng 12 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước truy tố bị cáo Trần Thanh S về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, - Viện kiểm sát huyện Tân Phước phát biểu:

Bị cáo đã thừa nhận hành vi pham tội như Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn đã nêu và phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo và khẳng định việc truy tố bị cáo như nội dung Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 01/QĐ-VKSTP ngày 30 tháng 12 năm 2022 là đúng người, đúng tội không có gì thay đổi. Đề nghị Tòa án xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173, Điều 38, Điều 50, điểm h, s khoản 1, điểm h khoản 2 Điều 51, Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Trần Thanh S phạm tội Trộm cắp tài sản và xử phạt bị cáo từ 18 tháng đến 24 tháng tù, thời gian chấp hành tính từ ngày 07/12/2022.

+ Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì khác.

+ Về xử lý vật chứng: Do bị cáo từ chối nhận lại các trang phục mà bị cáo đã mặc khi thực hiện hành vi trộm cắp nên đề nghị tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau đây:

- 01 (một) chiếc áo sơ mi dài tay, vải, nam giới, size XL. Chiều cao từ trên cùng cổ áo đến dưới cùng vạt áo là 75 cm. Chiều ngang 02 bên nách áo là 50 cm. Chiều dài từ vai áo đến dưới cùng ống tay áo là 60 cm. Chiếc áo màu đen không nhãn hiệu.

- 01 (một) chiếc quần lửng, nam giới, vải kaki, màu nâu đỏ, lưng thun. Chiều dài từ lưng cùng lưng quần đến dưới cùng ống quần là 52 cm. Chiều ngang từ mép túi quần bên trái sang mép túi quần bên phải là 50 cm. Quần có 02 túi phía trước và 01 túi phía sau - 01 (một) nón bảo hiểm, loại nón người lơn, nón nửa đầu, màu trắng. Trên nón có dòng chữ “FE CREDIT – VAY TIÊU DÙNG TÍN CHẤP”. Bên trong lót vải màu nâu đen, mỏ nón màu đen.

- 01 (một) đôi dép lào bằng nhựa màu xanh. Kích thước (27 x 10 x 08) cm.

- Đề nghị tiếp tục lưu giữ vào hồ sơ vụ án của Tòa án 01 (một) thẻ nhớ MICRO SD lưu trữ 02 file video clips ghi lại hình ảnh vụ trộm.

- Bị cáo thống nhất với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận gì.

- Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thấy mình sai, ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa, người bị hại chị Võ Thị Phi Y vắng mặt. Người làm chứng chị Lê Thị Thuy T và anh Phạm Tấn N vắng mặt. Xét việc các đương sự vắng mặt có lời khai tại hồ sơ và không yêu cầu về trách nhiệm dân sự. Việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt đương sự trên.

[2]. Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phước, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[3]. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

[3.1] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Trần Thanh S đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình, vào lúc 12 giờ ngày 07/12/2022 tại ấp Tân Phú, xã Tân Hòa Thành, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang Trần Thanh S đã có hành vị trộm cắp xe mô tô 02 bánh biển số 63B8 – X do chị Võ Thị Phi Y, sinh năm 1989, ĐKTT: Ấp P, xã H, huyện T, tỉnh Tiền Giang đứng tên sở hữu. Giá trị còn lại của xe mô tô trên là 8.600.000 đồng. Vì vậy, Trần Thanh S phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3.2] Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, lời khai của người bị hại; Người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác thu thập có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với kết quả xét hỏi và tranh tụng tại phiên tòa hôm nay. Do đó đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Thanh S phạm tội trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự: “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước truy tố đối với bị cáo là có cơ sở và đúng pháp luật.

[4]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của bị hại chị Võ Thị Phi Y. Nhằm mục đích muốn có tiền tiêu xài, phục vụ cho lợi ích cá nhân, ý thức lười lao động nhưng lại thích hưởng thụ bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác và trật tự công cộng được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, bị cáo S phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội của mình gây ra.

[5]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

- Tình tiết tăng nặng: Xét thấy, bản án hình sự sơ thẩm số 11/2021/HS-ST ngày 09/6/2021 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Long An xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt vào ngày 14/7/2022, chưa được xóa án tích. Đến ngày 07/12/2022 bị cáo S tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý, nên bị cáo Trần Thanh S có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm Hình sự là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra xét thấy, bị cáo Trần Thanh S thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm h, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

+ Tiền sự: Bị cáo có 02 tiền sự: Ngày 21/11/2022, bị cáo bị Chủ tịch UBND Phường 6, thành phố Tân An, tỉnh Long An ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 380/QĐ-XPHC với số tiền 1.500.000 đồng do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chưa chấp hành quyết định. Đồng thời, ngày 21/11/2022 bị cáo bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường 6, thành phố Tân An, tỉnh Long An ra Quyết định áp dụng biện pháp quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy với thời hạn 01 năm, chưa chấp hành xong.

Với tình tiết nêu trên, Tòa án cân nhắc khi lượng hình để tuyên xử mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo. Xét cần thiết phải cách ly bị cáo S khỏi đời sống chung với xã hội một thời gian, nhằm giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho gia đình, xã hội và nhằm răn đe, phòng ngừa chung.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7]. Về vật chứng của vụ án: 01 (một) chiếc áo sơ mi dài tay, vải, nam giới, size XL. Chiều cao từ trên cùng cổ áo đến dưới cùng vạt áo là 75 cm. Chiều ngang 02 bên nách áo là 50 cm. Chiều dài từ vai áo đến dưới cùng ống tay áo là 60 cm. Chiếc áo màu đen không nhãn hiệu; 01 (một) chiếc quần lửng, nam giới, vải kaki, màu nâu đỏ, lưng thun. Chiều dài từ lưng cùng lưng quần đến dưới cùng ống quần là 52 cm. Chiều ngang từ mép túi quần bên trái sang mép túi quần bên phải là 50 cm. Quần có 02 túi phía trước và 01 túi phía sau; 01 (một) nón bảo hiểm, loại nón người lơn, nón nửa đầu, màu trắng. Trên nón có dòng chữ “FE CREDIT – VAY TIÊU DÙNG TÍN CHẤP”. Bên trong lót vải màu nâu đen, mỏ nón màu đen; 01 (một) đôi dép lào bằng nhựa màu xanh. Kích thước (27 x 10 x 08) cm. Tất cả các vật chứng trên đều đã qua sử dụng. Đây là trang phục mà S đã mặc khi thực hiện hành vi trộm cắp. Tất cả các vật chứng trên không còn giá trị sử dụng và bị cáo không yêu cầu được nhận lại, nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) thẻ nhớ MICRO SD lưu trữ 02 file video clips ghi lại hình ảnh vụ trộm. Đây là vật chứng trong vụ án nên tiếp tục lưu giữ vào hồ sơ vụ án của Tòa án.

- Đối với khẩu trang y tế màu trắng được Trần Thanh S sử dụng khi thực hiện hành vi trộm cắp xe và đã bị rơi mất khi S bị người dân bắt giữ. Cơ quan điều tra đã tổ chức truy tìm nhưng không thu hồi được nên Tòa án không đặt ra xem xét.

[8]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là chị Võ Thị Phi Y đã nhận lại tài sản xong cũng không có yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì nên Tòa án không đặt ra xem xét [9]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

[10]. Xét phân tích và đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp với nhận định trên, Tòa án chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Thanh S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38, 50; điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Thanh S 02 (hai) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 07/12/2022.

2. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ khoản 2, 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật Hình sự.

- Tịch thu, tiêu hủy các vật chứng gồm:

+ 01 (một) chiếc áo sơ mi dài tay, vải, nam giới, size XL. Chiều cao từ trên cùng cổ áo đến dưới cùng vạt áo là 75 cm. Chiều ngang 02 bên nách áo là 50 cm. Chiều dài từ vai áo đến dưới cùng ống tay áo là 60 cm. Chiếc áo màu đen không nhãn hiệu.

+ 01 (một) chiếc quần lửng, nam giới, vải kaki, màu nâu đỏ, lưng thun. Chiều dài từ lưng cùng lưng quần đến dưới cùng ống quần là 52 cm. Chiều ngang từ mép túi quần bên trái sang mép túi quần bên phải là 50 cm. Quần có 02 túi phía trước và 01 túi phía sau.

+ 01 (một) nón bảo hiểm, loại nón người lơn, nón nửa đầu, màu trắng. Trên nón có dòng chữ “FE CREDIT – VAY TIÊU DÙNG TÍN CHẤP”. Bên trong lót vải màu nâu đen, mỏ nón màu đen.

+ 01 (một) đôi dép lào bằng nhựa màu xanh. Kích thước (27 x 10 x 08) cm.

Vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang đang tạm giữ. Thực hiện khi án có hiệu lực pháp luật.

- Tiếp tục lưu giữ vào hồ sơ vụ án của Tòa án 01 (một) thẻ nhớ MICRO SD lưu trữ 02 file video clips ghi lại hình ảnh vụ trộm.

3. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Trần Thanh S phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo Trần Thanh S có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người bị hại chị Y vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

46
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 04/2023/HS-ST

Số hiệu:04/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phước - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về