Bản án về tội trộm cắp tài sản số 04/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, TỈNH BÌNH ĐỊNH

 BẢN ÁN 04/2023/HS-ST NGÀY 11/04/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 4 năm 2023, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện L, tỉnh Bình Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 02/2023/TLST-HS ngày 18 tháng 01 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 3 năm 2023; Quyết định hoãn phiên toà số: 25/2023/HSST-QĐ ngày 20 tháng 3 năm 2023, đối với bị cáo:

VŨ VĂN H (tên gọi khác Ốm), sinh ngày 12 tháng 9 năm 1987, tại Bình Định; nơi cư trú: thôn H (nay là khu phố H), thị trấn L, huyện L, tỉnh Bình Định; nơi ở hiện nay: thôn 2, xã A, huyện L, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 0/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: không xác định và bà Trần Thị Đ (sinh năm 1956); vợ: chưa có hiện sống chung như vợ chồng với Đinh Thị M1, (sinh năm 1986, ở thôn 2, xã A, huyện L, tỉnh Bình Định) và có 01 con (con chung với Đinh Thị M2 tên Đinh Bình K, sinh ngày 07/5/2016); tiền án: không, tiền sự: không, nhân thân: ngày 07/4/2004, bị Tòa án nhân dân huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 14/5/2013, bị Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bình Định xử phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 24/12/2013, bị Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bình Định xử phạt 06 tháng 11 ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo tại ngoại. “có mặt”.

Người bào chữa cho bị cáo Vũ Văn H: Ông Phạm Minh Vương, sinh năm 1975, là trợ giúp viên pháp lý, thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bình Định. “có mặt”.

- Bị hại:

+ Ông Đinh Văn Q, sinh năm 1960; nơi cư trú: Khu phố 2, thị trấn A, huyện L, tỉnh Bình Định. “có mặt”.

+ Chị Vương Đặng V, sinh năm 1993; nơi cư trú: Khu phố 9, thị trấn A, huyện L, tỉnh Bình Định. “vắng mặt”.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Cháu Đinh Bình K, sinh ngày 07/5/2016; nơi cư trú: thôn 2, xã A, huyện L, tỉnh Bình Định. “có mặt”.

- Người đaị diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án cháu Đinh Bình K: Bà Đinh Thị M2 (là mẹ ruột). “có mặt”.

+ Bà Đinh Thị L, sinh năm 1975; nơi cư trú: thôn 2, xã A, huyện L, tỉnh Bình Định. “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 04 giờ ngày 04/10/2022, Vũ Văn H cùng con trai tên Đinh Bình K đi bộ từ khu phố Hưng Nhơn Bắc, thị trấn L về nhà ở thôn 2, xã An Vinh. Khi đi đến quán cà phê DT (thuộc khu phố 2, thị trấn L) thì H nảy sinh ý định trộm xe mô tô của người khác, để làm phương tiện đi về nhà. Thấy nhà của ông Đinh Văn Q (ở khu phố 2, thị trấn A) không có hàng rào, cổng ngõ nên H đi vào trong khu vực sân nhà ông Q để tìm kiếm. H đi ra phía sau nhà và thấy chiếc xe mô tô mang biển kiểm soát 77N6-0243 dựng trong trại củi, có chìa khóa buộc trên dây ga của xe, H lén lút dắt xe ra ngoài đường rồi nổ máy, chở con trai về thôn 2, xã A. Khi về đến nhà, H không điều khiển xe vào nhà mà cất giấu xe ở ngoài rừng để tránh mọi người phát hiện. Sau đó, H sử dụng xe này để đi lại trên địa bàn xã A cho đến khi Công an xã A phát hiện.

Qua điều tra, H khai nhận trước đó, vào tối ngày 06/9/2022, khi đang điều trị bệnh tại Trung tâm y tế huyện L, do không có tiền tiêu xài nên H nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. H đợi đến đêm khuya thì H cùng con trai Đinh Bình K đi tìm kiếm có ai để tài sản sơ hở thì trộm cắp. Khi đi đến phòng bệnh tại Khoa Nội - Nhi, H nhìn thấy trên kệ cửa sổ có 01 chiếc túi xách màu hồng của chị Vương Đặng V. H lén lút lấy chiếc túi xách trên của chị V, bên trong túi xách có 01 điện thoại di động Iphone 6s Plus màu vàng, số tiền 90.000 đồng và một số giấy tờ. H lấy chiếc điện thoại di động cùng số tiền 90.000 đồng, còn túi xách và giấy tờ H vứt bỏ tại khu vực gần quán cà phê DT, rồi đi về thôn 2, xã A. Sau khi lấy được chiếc điện thoại, H không biết dùng và cũng không thể mở khóa nên H đã cầm cố cho chị Đinh Thị L, để lấy 500.000 đồng cùng với số tiền 90.000 đồng trên, tiêu xài cá nhân.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 15/KL-HĐĐGTS ngày 24/10/2022 và số 16/KL-HĐĐGTS ngày 25/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện L đã xác định: Điện thoại Iphone 6s Plus màu vàng của chị V có giá trị 1.500.000 đồng và 01 xe mô tô của ông Q có giá trị 2.250.000 đồng.

Tại cáo trạng số: 02/CT-VKS, ngày 17 tháng 01 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện L, tỉnh Bình Định đã truy tố bị cáo Vũ Văn H về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố phát biểu lời luận tội và phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện; giữ nguyên quyết định truy tố như bản cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự (BLHS) tuyên xử: Về tội danh: tuyên bố bị cáo Vũ Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Về hình phạt: xử phạt bị cáo Vũ Văn H từ 09 đến 12 tháng tù. Về vật chứng: không. Về phần dân sự: áp dụng Điều 46, 48 BLHS, Điều 589 Bộ luật dân sự, ông Đinh Văn Q và chị Vương Đặng V không yêu cầu nên không xem xét; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Đinh Thị L yêu cầu bị cáo hoàn trả 500.000đ đã nhận của L. Xét thấy, chị L đã được Toà án triệu tập hợp lệ 02 lần nhưng không có mặt tại phiên toà mà không có lý do chính đáng nên căn cứ khoản 2 Điều 292 BLTTHS, tách yêu cầu của Đinh Thị L để xét xử sau theo quy định pháp luật.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. bị cáo không biết chữ nên trình độ hiểu biết, nhận thức pháp luật còn hạn chế. Hiện tại, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, thuộc diện hộ nghèo. Bị hại không yêu cầu bồi thường thiệt hại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 BLHS, xử phạt bị cáo Vũ Văn H 06 đến 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Ý kiến của bị hại ông Đinh Văn Q tại phiên toà và chị Vương Đặng V tại đơn xin xét xử vắng mặt: Không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại và xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo thừa nhận hành vi của mình như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là đúng và đồng ý với lời bào chữa, không bổ sung gì thêm. Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thu giữ vật chứng và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã thu thập trong quá trình điều tra, được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa, đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 04 giờ ngày 04/10/2022, bị cáo Vũ Văn H đã lén lút vào nhà ông Đinh Văn Q trộm cắp xe mô tô có giá trị 2.250.000 đồng. Trước đó, vào ngày 06/9/2022, H cùng con trai Đinh Bình K lén lút trộm túi xách của chị Vương Đặng V bên trong có điện thoại Iphone 6s Plus màu vàng có giá trị 1.500.000 đồng và 90.000 đồng tiền mặt. Do đó, hành vi mà bị cáo thực hiện, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Do vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện L, tỉnh Bình Định truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, gây mất trị an tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Về nhân thân, bị cáo đã từng có 03 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, lẽ ra bị cáo phải tỉnh ngộ, ăn năn hối cải, làm ăn lương thiện và không tái phạm, nhưng bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội của mình, chứng tỏ bị cáo coi thường pháp luật. Về nhận thức, bị cáo biết hành vi trộm cắp của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì bản tính lười lao động, thích hưởng thụ, nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu xài cá nhân, bị cáo đã bất chấp sự trừng phạt của pháp luật, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, nên cần phải xử lý bị cáo nghiêm khắc. Tuy nhiên, HĐXX nhận thấy rằng, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị hại không yêu cầu bồi thường thiệt hại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.

[4] Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Xét thấy, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu nên không xem xét.

[6] Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đinh Thị L, trong quá trình điều tra Đinh Thị L yêu cầu bị cáo H phải trả lại 500.000 đồng (tiền cầm cố chiếc điện thoại). Tuy nhiên, chị L được Tòa án triệu tập hợp lệ 02 lần mà vắng mặt không có lý do hay vì sự kiện bất khả kháng, việc vắng mặt của chị L chỉ trở ngại cho việc giải quyết bồi thường thiệt hại nên HĐXX tách yêu cầu bồi thường này ra để giải quyết bằng một vụ án dân sự khác nếu chị L có yêu cầu.

[7.1] Đối với Đinh Bình K là con trai của bị cáo Vũ Văn H, đã cùng tham gia giúp sức cho H trong việc trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, tính đến thời điểm thực hiện hành vi thì cháu K mới 06 tuổi 04 tháng 27 ngày nên không đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện L không xử lý Đinh Bình K có căn cứ.

[7.2] Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đinh Thị L: Vì L không biết chiếc điện thoại mà bị cáo cầm cố cho mình là do trộm cắp mà có nên Công an huyện L không xử lý hình sự đối với Đinh Thị L là có căn cứ.

[8] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Công an huyện L đã tạm giữ 01 xe mô tô biển kiểm soát 77N6-0243 và 01 điện thoại Iphone 6s Plus màu vàng. Cơ quan điều tra Công an huyện L đã trả lại cho chủ sở hữu ông Đinh Văn Q 01 xe mô tô, biển kiểm soát 77N6-0243, trả cho chị Vương Đăng V 01 điện thoại Iphone 6s Plus màu vàng, là phù hợp với quy định của pháp luật nên HĐXX không xem xét.

[9] Về án phí HSST: Bị cáo Vũ Văn H là cá nhân thuộc hộ nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14.

[10] Xét quan điểm của Kiểm sát viên: Đề nghị áp dụng các khoản, điểm, Điều và mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của HĐXX nên chấp nhận.

[11] Xét quan điểm của người bào chữa cho bị cáo Vũ Văn H: Đề nghị áp dụng các khoản, điểm, Điều và mức hình phạt đối với bị cáo là tương đối phù hợp với nhận định của HĐXX nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự;

Căn cứ Điều 46, Điều 48 BLHS; Điều 579, Điều 580 Bộ luật dân sự;

Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Văn H phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

2. Xử phạt: Bị cáo Vũ Văn H 09 (Chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

3. Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại không yêu cầu, nên không xem xét.

4. Về án phí HSST: Bị cáo được miễn theo quy định của pháp luật.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

87
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 04/2023/HS-ST

Số hiệu:04/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoài Ân - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về