Bản án về tội trộm cắp tài sản số 04/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 04/2022/HS-ST NGÀY 27/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27/01/2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 175/2021/TLST-HS ngày 26/11/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 155/2021/QĐXXST-HS ngày 15/12/2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Hữu Đ, sinh ngày 20/01/2005 tại huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

Nơi ĐKHTT: thôn Xuân Dương, xã G, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Nghề nghiệp: Lao động tự do – Trình độ văn hoá: lớp 10/12.

Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Nguyễn Hữu Thành, sinh năm 1982.

Con bà: Nguyễn Thị K, sinh năm 1983. Vợ, con: chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 05/7/2021, bị Cơ quan CSĐT Công an thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ khởi tố về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 BLHS.

Ngày 30/8/2021, bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang khởi tố về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 BLHS.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/9/2021 đến nay tại trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. (có mặt tại phiên tòa).

Người bào chữa cho bị cáo Đồng là bà Phan Thị Thu Hương – là trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Bắc Ninh (có mặt tại phiên tòa).

Người đại diện và giám hộ cho bị cáo Đồng là ông Nguyễn Hữu Thành, sinh năm 1982.

HKTT: thôn Dương Xá, xã G, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội (có mặt tại phiên tòa).

Người bị hại: anh Trần Khắc B, sinh năm 1998;

HKTT: thôn Tiên Trà, xã T, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. (vắng mặt tại phiên tòa).

Chị Phạm Thị T, sinh năm 1987;

HKTT: khu phố Xuân Thu, phường Đồng N, tp Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. (vắng mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1996;HKTT: thôn Ân Phú, xã P, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (vắng mặt tại phiên tòa).

Công ty Bảo hiểm PVI Tràng An (Bảo hiểm PVI Tràng An) – Tổng công ty Bảo hiểm PVI – Phòng quản lý nghiệp vụ & Bồi thường – Công ty Bảo hiểm PVI Tràng An. Do ông Lê Trọng Hùng là người đại diện theo uỷ quyền tham dự phiên toà; (ông Hùng có mặt).

Địa chỉ: Tầng 05 tòa nhà Hoàng Thành, số 66 đường Hồng Tiến, phường B, quận Long Biên, thành phố Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, thì nội dụng vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 15/3/2021 bị cáo Nguyễn Hữu Đ đang ở nhà thì có Nguyễn Hữu Hoàn, sinh năm 2003 ở cùng thôn điều khiển xe máy Honda Wave màu nâu đến chơi, sau đó Hoàn chở bị cáo Đồng đi đến xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Đến khoảng hơn 12 giờ 40 phút cùng ngày, khi đi đến xưởng sản xuất nhựa của anh Nguyễn Hoàng Bích, sinh năm 1987 ở thôn Phù Xá, xã Văn Môn thì bị cáo Đồng và Hoàn phát hiện chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, sơn màu xanh đen bạc, biển kiểm soát 99D1 – 447.27 của anh Trần Khắc B dựng rìa đường, không có người trông coi. Vì vậy bị cáo Đồng và Hoàn rủ nhau trộm cắp chiếc xe trên. Hoàn điều khiển xe dừng cách vị trí dừng chiếc xe BKS 99D1 – 447.27 khoảng 10 mét để cảnh giới còn Đồng đi bộ lại gần chiếc xe trên. Thấy xe không khóa cổ, không khóa càng nên bị cáo Đồng dắt chiếc xe của anh Bảo về phia đường tỉnh lộ 286 ngồi lên xe để Hoàn ngồi trên xe của Hoàn dùng chân đẩy chiếc xe vừa trộm cắp được cùng bị cáo Đồng về xã G, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Sau Hoàn mang bán chiếc xe trộm cắp được và chia cho bị cáo Đồng 3.000.000đ, số tiền trên bị cáo Đồng ăn tiêu cá nhân hết.

Sau khi phát hiện bị trộm cắp chiếc xe trên, đến ngày 01/4/2021 anh Trần Khắc B đã trình báo sự việc đến Công an huyện Yên Phong..

Ngày 18/9/2021, bị cáo Nguyễn Hữu Đ đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Yên Phong đầu thú.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 32/KL-ĐG ngày 06/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Phong kết luận: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, sơn màu xanh đen bạc, BKS 99D1 - 447.27 trị giá 12.500.000đ.

Quá trình điều tra làm rõ, chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, BKS 99D1- 447.27 là của chị Nguyễn Thị N (là chị dâu anh Bảo), ngày 15/3/2021 chị Nhung cho anh Bảo mượn chiếc xe trên để đi làm. Sau khi sự việc xảy ra, chị Nhung đã được Công ty Bảo hiểm PVI Tràng An – Tổng công ty Bảo hiểm PV1 bồi thường giá trị chiếc xe trên là 14.232.000đ, đến nay chị Nhung và anh Bảo không có yêu cầu gì về bồi thường dân sự. Công ty bảo hiểm PV1 Tràng An – Tổng công ty bảo hiểm PVI yêu cầu bị các bị cáo phải bồi thường số tiền 12.500.000đ.

Quá trình điều tra bị cáo Đồng còn tự nguyện khai nhận ngoài hành vi trộm căp chiếc xe mô tô BKS 99D1 – 447.27, bị cáo còn trộm cắp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH trên địa bàn khu phố Tân Hồng, phường Đông Ngàn, tp Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Khoảng 12 giờ ngày 16/9/2021 bị cáo Đồng cùng Nguyễn Quang Tường, sinh năm 2002 ở cùng thôn rủ nhau đi trộm cắp xe mô tô. Bị cáo Đồng điều khiển chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, sơn màu tím (Đồng không nhớ BKS) chở Tường đi đến quán café “One Kafé, thuộc khu phố Tân Hồng, phường Đông Ngàn, tp Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh thì phát hiện chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH 125i, sơn màu đỏ đen, BKS 99B1 – 272.82 của chị Tâm để trước cửa quán. Bị cáo Đồng quay xe đỗ cách cửa quán khoảng 02 m rồi đi bộ quay lại còn Tường ngồi trên xe cảnh giới. Bị cáo Đồng kiểm tra phát hiện xe khóa cổ nên ngồi lên yên xe, hai tay cầm vào tay lái bên phải của xe và chân phải đạp vào tay lái bên trái của xe và đạp mạnh theo chiều kim đồng hồ để phá khóa xe. Sau khi phá được khóa cổ thì Đồng quay ra chỗ Tường đang đứng đợi và bảo Tường vào dắt xe ra. Tường đi đến dắt lùi chiếc xe mà bị cáo Đồng vừa phá khóa cổ đến vị trí Đồng đang ngồi đợi rồi ngồi lên chiếc xe vừa trộm cắp được để bị cáo Đồng ngồi trên xe mô tô của Đồng dùng chân đẩy chiếc xe vừa trộm cắp cùng Tường về nhà bị cáo Đồng. Sau Đồng tháo biển kiểm soát của xe vứt đi và dùng chiếc xe trên làm phương tiện đi lại. Đến ngày 18/9/2021 khi ra đầu thú bị cáo Đồng tự nguyện giao nộp chiếc xe này.

Ngày 05/10/2021 chị Phạm Thị T mới đến Công an huyện Yên Phong trình báo.

Ngày 14/10/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Yên Phong đã có công văn trao đổi thông tin về tội phạm đến Cơ quan CSĐT Công an thành phố Từ Sơn.

Ngày 15/10/2021, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Từ Sơn có Công văn xác định vụ án trên chưa được khởi tố vì bị cáo chưa trình báo và đề nghị Cơ quan CSĐT Công an huyện Yên Phong xử lý cùng với hành vi trộm cắp của bị cáo Nguyễn Hữu Đông thực hiện trên địa bàn huyện Yên Phong mà Cơ quan CSĐT Công an huyện Yên Phong đang thụ lý.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 80/KL-ĐG ngày 14/11/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Phong kết luận: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH 125i, sơn màu đỏ đen, biển kiểm soát 99B1 – 272.82 trị giá 30.000.000đ.

Về vật chứng thu giữ: khi ra đầu thú bị cáo Đồng giao nộp chiếc xe đã trộm cắp của chị Phạm Thị T (xe không BKS) Riêng chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, BKS 99D1 – 447.27 của anh Bảo không thu hồi được.

Về trách nhiệm dân sự: chiếc xe bị cáo Đồng trộm cắp của chị Tâm đến nay Cơ quan CSĐT Công an huyện Yên Phong đã thu hồi và trả lại cho chị Tâm, chị Tâm nhận lại đầy đủ và không có yêu cầu gì.

Riêng chiếc xe của anh Bảo đến nay không thu hồi được, anh Bảo, chị Nhung đã được Công ty bảo hiểm PVI Tràng An bồi thường đầy đủ, nay chị Nhung anh Bảo không có yêu cầu gì về bồi thường. Riêng Công ty bảo hiểm PVI Tràng An yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 12.500.000đ theo biên bản định giá tài sản.

Bản cáo trạng số 172/CT-VKSYP ngày 25/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu Đ với tội danh “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1, Điều 173 BLHS.

Tại phiên tòa bị cáo Đồng đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như bản Cáo trạng đã truy tố bị cáo ra trước Tòa để xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS là đúng người đúng tội và đúng pháp luật không có oan sai gì, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng khoan hồng của pháp luật, để bị cáo sớm được hoà nhập với cộng đồng. Bị cáo cũng đồng ý bồi thường số tiền 12.500.000đ theo biên bản định giá tài sản đối với chiếc xe máy của anh Bảo đến nay không thu hồi được.

Ông Thành trình bày: ông đã nghe rõ lời khai của bị cáo Đồng tại phiên tòa hôm nay về thời gian không gian địa điểm cũng như hành vi phạm tội của bị cáo Đồng là hoàn toàn đúng ông không có ý kiến gì, ông chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật để cháu còn có cơ hội làm lại cuộc đời. Ông Thành cũng đồng ý bồi thường ngay cho Công ty bảo hiểm PVI Tràng An thay cho bị cáo Đồng số tiền 6.500.000đ cho công ty, ông cũng cam đoan gia đình sẽ cố gắng thu xếp để bồi thường phần tiền còn lại cho Công ty bảo hiểm PVI Tràng An theo yêu cầu.

Cũng tại phiên tòa ông Lê Trọng Hùng là người đại diện theo uỷ quyền của trình bày Công ty bảo hiểm PVI Tràng An: ông Hùng đã nghe rõ lời khai của bị cáo Đồng tại phiên tòa hôm nay về thời gian, không gian địa điểm cũng như hành vi phạm tội của bị cáo Đồng, về trách nhiệm dân sự đến nay ông đã nhận được 6.500.000đ gia đình anh Thành bồi thường thay cho bị cáo, đối với số tiền còn lại đề nghị HĐXX buộc bị cáo phải bồi thường cho Công ty tại Bản án.

Đại diện VKSND huyện Yên Phong thực hành quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích đánh giá chứng cứ, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra cho xã hội cùng các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã kết luận vụ án và giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu Đ phạm tội “Trôm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1, Điều 173, điểm s, r khoản 1, 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, 91, 101 BLHS. Xử phạt bị cáo Đồng từ 12 tháng đến 14 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 BLHS, Điều 584, 587,589 BLDS Buộc bị cáo Nguyễn Hữu Đ và anh Nguyễn Hữu Thành phải bồi thường cho Công ty bảo hiểm PVI Tràng An số tiền 6.000.000đ còn lại.

Về vật chứng: không.

Bà Hương trình bày: Về hành vi phạm tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo là đúng người đúng tội, bà không có ý kiến gì. Riêng về hình phạt bà đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo có cơ hội làm lại cuộc đời với mức án nhẹ nhất, bởi lẽ gia đình bị cáo tuổi đời còn trẻ, bố mẹ lại thường xuyên đi làm không về mà phải cách ly do dịch bệnh dẫn đến không ai quản lý bị cáo, bị cáo từ bị bạn bè rủ rê dẫn đến đi vào con đường phạm tội. Khi nhận ra việc làm của mình là sai trái, bị cáo đã tự nguyện ra đầu thú và giao nộp một tài sản trộm cắp được.

Bị cáo nhận tội và không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dụng vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tuận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Công an huyện Yên Phong, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyên Yên Phong trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại. Do vậy các hành vi, quyết định Tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trên đều hợp pháp.

2. Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa bị cáo khai nhân toàn bộ hành vị phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với đơn trình báo lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, biên bản đầu thú, biên bản giao nộp tài liệu đồ vật, bản kết luận định giá tài sản và các chứng cứ khác có trong hồ sơ đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ tháng 3/2021 đến tháng 9/2021, bị có Nguyễn Hữu Đ đã có hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Yên Phong và thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, với tổng số tiền bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại Yên Phong và Từ Sơn là 42.500.000đ để bán lấy tiền ăn tiêu cá nhân và làm phương tiện đi lại. Do vậy đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong thực hành quyền công tố tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản , Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người đúng tội và đúng pháp luật.

3. Về nhân thân tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Về tình tiết giảm nhẹ thấy: Bị cáo xuất thân từ gia đình nhân dân lao động lúc phạm tội mới có 16 tuổi 01 tháng 24 ngày, sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã đến Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Phong đầu thú và tự nguyện khai ra hành vi phạm tội khác chưa bị phát hiện, đồng thời giao nộp lại chiếc xe đã trộm cắp. Quá trình tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm r, s khoản 1, khoản 2, Điều 51 BLHS. Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải bắt bị cáo cách ly khỏi xã hội một thời gian nhất định thì mới có thể cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người lương thiện và có ích cho xã hội.

Về tình tiết tăng nặng: bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng là phạm tội 02 lần trở lên được quy định tại điểm g khoản 1, Điều 52 Bộ luật hình sự.

4. Về trách nhiệm dân sự: Chiếc xe mà bị cáo Đồng trộm cắp được của chị Tâm đến nay Cơ quan CSĐT Công an huyện Yên Phong đã thu hồi và trả lại cho chị Tâm, chị Tâm nhận lại đầy đủ và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm, còn chiếc xe mà bị cáo trộm cắp ngày 15/3/2021 của anh Bảo, chiếc xe trên đăng ký mang tên chị Nhung và chị Nhung có mua bảo hiểm với Công ty bảo hiểm PVI Tràng An, đến nay Công ty Bảo hiểm PVI Tràng An đã bồi thường cho chị Nhung, chị Nhung, anh Bảo không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm, nay Công ty bảo hiểm PVI Tràng An yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho Công ty số tiền là 12.500.000đ theo biên bản định giá tài sản, ngoài ra Công ty không yêu cầu gì thêm, xét thấy yêu cầu của Công ty bảo hiểm PVI Tràng An là có căn cứ cần được chấp nhận, tại phiên toà gia đình bị cáo đã bồi thường số tiền 6.500.000đ vậy bị cáo phải bồi thường cho Công ty số tiền 6.000.000đ còn lại là phù hợp với pháp luật.

5. Về vật chứng: không Liên quan trong vụ án này còn có:

Đối với Nguyễn Hữu Hoàn và Nguyễn Quang Tường là người mà bị cáo Đồng khai nhận đã cùng Đồng thực hiện hành vi trộm cắp 02 chiếc xe mô tô nêu trên: Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, triệu tập anh Hoàn, Tường đến làm việc nhưng hiện Hoàn, Tường không có mặt tại địa phương. Gia đình và chính quyền địa phương không biết Hoàn và Tường đi đâu, làm gì nên Cơ quan điều tra đã tách tài liệu liên quan để tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là phù hợp pháp luật.

Đối với chiếc xe mô tô trộm cắp được của anh Trần Khắc B. Theo bị cáo Đồng trình bày Hoàn là người mang chiếc xe trên đi bán. Sau đó, Hoàn nói với bị cáo là bán cho Nguyễn Văn Liêm, sinh năm 1994 trú tại thôn Thu Thủy, xã Xuân Thu, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội được 6.000.000đ. Cơ quan điều tra đã làm việc với Liêm nhưng Liên không thừa nhận nội dung như bị cáo Đồng đã trình bày: Do vậy chưa có đủ căn cứ để xử lý đối với Liêm về hành vi Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra đã tách tài liệu liên quan để tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là phù hợp.

Đối với chiếc xe mô tô Honda Wave mà bị cáo Đồng sử dụng để đi trộm cắp: bị cáo Đồng khai nhận đây là chieecx xe mà Đồng cùng Nguyễn Công Trường, sinh ngày 14/12/2005 trú tại thôn Xuân Dương, xã G, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội trộm cắp được tại khu vực pường Tam Sơn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh vào khoảng giữa tháng 8/2021. Sau bị cáo Đồng đã bán cho Ngô Cung Xuân, sinh năm 2000 ở cùng thôn với giá 2.000.000đ. Cơ quan điều tra đã tiền hành xác minh, triệu tập Xuân đến làm việc nhưng hiện Xuan không có mặt tại địa phương. Nên Cơ quan điều tra đã tách tài liệu liên quan để tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là phù hợp pháp luật.

Quá trình điều tra bị cáo Đồng và Trường còn khai nhận đã cùng nhau thực hiện trộm cắp 01 chiếc xe mô tô Honda Wave, sơn màu xanh ngọc, không nhớ biển kiểm soát trên địa bàn huyện Yên Phong. Tuy nhiên, bị cáo Đồng và Trường đềuk hông còn nhớ vị trí địa điểm đã thực hiện hành vi trộm cắp trên. Cơ quan điều tra đã ra thông bó truy tìm bị hại nhưng chưa tìm được nên đã tách tài liệu liên quan đến vụ trộm cắp này để tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là phù hợp pháp luật. Đối với Nguyễn Công Trường khi thực hiện hành vi trộm cắp này chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý hình sự là phù hợp pháp luật.

luật.

6. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hữu Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản” .

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm r, s, khoản 1, 2 Điều 51; điểm g Điều 52, Điều 91; Điều 38, 101 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Nguyễn Hữu Đ 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 18/9/2021.

Áp dụng Điều 329 BLTTHS tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Hữu Đ 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 BLHS, Điều 584, 587, 589 BLDS. Buộc bị cáo Nguyễn Hữu Đ và anh Nguyễn Hữu Thành phải bồi thường cho Công ty bảo hiểm PVI Tràng An (Bảo hiểm PVI Tràng An – Tổng công ty Bảo hiểm PVI) là 6.000.000đ.

Về vật chứng: không có.

Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Nguyễn Hữu Đ phải chịu 200.000đ án phí HS-ST và 300.000đ án phí DS-ST.

Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự. Nếu không thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo, người bị hại, người đại diện giám hộ cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được kết quả tống đạt bản án, hoặc niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

311
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 04/2022/HS-ST

Số hiệu:04/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:27/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về