TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, TỈNH HÒA BÌNH
BẢN ÁN 04/2020/HS-ST NGÀY 20/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 20 tháng 02 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 05/2020/TLST-HS ngày 05/02/ 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn số: 01/2020/QĐXXST - HS ngày 14 tháng 02 năm 2020 đối với:
1. Bị cáo Nguyễn L, sinh ngày 30/04/1997. Tại: Huyện L, tỉnh Hòa Bình; Nơi ĐKHKTT và trú tại: Khu Ch, thị trấn Ch, huyện L, tỉnh Hoà Bình. (Trước đây là thôn Ch, xã L, huyện L, tỉnh Hòa Bình); Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch; Việt Nam; Con ông: Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1969; con bà: Phạm Thị Th, sinh năm 1970; vợ, con: không;
- Tiền sự: Không; Tiền án: 01 (một).Tại bản án số: 08/2018/HSST Ngày15/06/2018 Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình xử phạt 12 (Mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (Hai mươi bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” ; Nhân thân: Ngày 15/06/2018 bị Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình xử phạt 12 (Mười hai) tháng tù cho hưởng án treo;
- Tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/01/2020 đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ, tạm giam Công an huyện L, tỉnh Hòa Bình. (Có mặt tại phiên tòa).
2. Người bị hại:
- Anh: Nguyễn Văn H - Trú tại: Khu Ch, thị trấn Ch, huyện L, tỉnh Hoà Bình. (vắng mặt)
3. Người chứng kiến:
- Anh: Lại Hữu Th; chị: Nguyễn Thu B ( có mặt) Trú tại: Khu Ch, thị trấn Ch, huyện L, tỉnh Hoà Bình.
*. Vật chứng cần đưa ra xem xét tại phiên tòa: Không.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ 50 phút ngày 13/01/2020, bị cáo Nguyễn L đi bộ một mình từ nhà đến gia đình ông Nguyễn Văn H tại: Khu Đ, thị trấn Ch, huyện L, tỉnh Hòa Bình (trước đây là thôn Đ, xã L, huyện L, tỉnh Hòa Bình) là bác ruột của L. Đến cổng nhà ông H, L quan sát thấy gia đình ông H đang ngồi ăn cơm ở bếp, do thường xuyên sang chơi nên L biết nhà ông H nuôi nhiều chó và đàn chó đã quen L nên không cắn, L lợi dụng gia đình ông H không để ý nên đã lén lút đi ra chuồng chó nhà ông H ở gần bờ ao. Sau đó, L dùng tay phải kéo cửa chuồng chó ra rồi dùng hai tay bắt một con chó đực, màu lông vàng ở trong chuồng ra. Trong chuồng còn ba con chó nữa nhưng do đi một mình nên L chỉ bắt trộm được một con. L dùng hai tay ôm con chó trước ngực rồi đi ra đường liên thôn hướng về phía nghĩa địa L thì bị tổ công tác Công an huyện L và Công an xã L ( nay là TT Ch) phát hiện và bắt quả tang cùng vật chứng vụ án.
Vật chứng vụ án :
- 01 (Một) con chó màu vàng, con chó đực.
Tại bản kết luận định giá tài sản số: 03/KLĐG ngày 15/01/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện L kết luận: một con chó đực màu lông vàng nặng 11kg có giá trị là 898.300đ (Tám trăm, chín mươi tám nghìn, ba trăm đồng).
Ngày 13/01/2020 ông Nguyễn Văn H đã có đơn xin lại tài sản. Cùng ngày cơ quan CSĐT Công an huyện L đã tiến hành trao trả vật chứng là con chó đực màu lông vàng nặng 11kg cho chủ sở hữu là ông H ngay sau khi bắt quả tang Nguyễn L.
Tại quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số: 01/QĐ-VKS ngày 04/02/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện L đã truy tố Nguyễn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Thực hành quyền công tố tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L, sau khi xem xét đánh giá toàn diện nội dung vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.Trình bày quan điểm và luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn L phạm tội “ trộm cắp tài sản” - Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h,s khoản 1 Điều 51, điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn L từ 12 đến 18 tháng tù.
Áp dụng khoản 2 điều 56 BLHS tổng hợp hình phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng tại bản án số: 08/2018/HSST ngày 15/06/2018 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình.
- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn L.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng:
Cơ quan CSĐT – Công an huyện Lạc Thuỷ, Điều tra viên, VKSND huyện L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với các quy định của pháp luật.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám nghiệm hiện trường, vật chứng thu giữ, lời khai của người bị hại, người chứng kiến cùng các tài liệu đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.Vào khoảng 17 giờ 50 phút, ngày 13/01/2020, bị cáo Nguyễn L một mình đi bộ từ nhà đến nhà ông Nguyễn Văn H, sau khi quan sát thấy gia đình ông H đang ăn cơm, bị cáo đã lén lút đi ra chuồng chó nhà ông H ở gần bờ ao, dùng tay phải kéo cửa chuồng chó ra dùng hai tay bắt một con chó đực, màu lông vàng, nặng 11kg, sau đó bị Công an huyện L phối hợp với Công an xã L bắt quả tang trong khi bị cáo đang ôm con chó mang đi tiêu thụ. Giá trị tài sản chiếm đoạt là: 898.300 đ (Tám trăm chín mươi tám nghìn ba trăm đồng). Nguyễn L là đối tượng có 01 tiền án về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” chưa được xóa án tích, nên lần phạm tội này được xác định là phạm tội trong thời gian chấp hành hình phạt.
Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự. Do vậy Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số: 01/QĐ-VKS ngày 04/2/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện L, tỉnh Hoà Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 điều 173 BLHS là có căn cứ pháp luật.
[3] Về tính chất vụ án, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo:
Xét tính chất của vụ án thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an ở địa phương, trực tiếp xâm phạm một cách trái pháp luật đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Vì vậy, cần có hình phạt nghiêm khắc nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung trong toàn xã hội.
Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng:
Bị cáo Nguyễn L được sinh ra trong gia đình lao động, được bố mẹ cho ăn học hết lớp 09/12 thì nghỉ học, bản thân bị cáo không chịu học tập, lao động và rèn luyện mà chỉ ham chơi lêu lổng, rồi phạm tội. Bị cáo có nhân thân xấu ngày 15/06/2018 bị Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình xử phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, chưa được xóa án tích, chưa thi hành xong hình phạt, ngày 13/01/2020 bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi “Trộm cắp tài sản” đây là tình tiết định tội đối với hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo. Vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của bị cáo gây ra. Tuy nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình mong được hưởng sự khoan hồng của pháp luật, hậu quả của việc phạm tội sảy ra không lớn. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h, s khoản 1 điều 51 BLHS. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Để giữ nghiêm kỷ cương của pháp luật và để nhằm mục đích răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung, xét thấy cần thiết cách ly bị cáo Nguyễn L ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo có điều kiện rèn luyện cải tạo thành con người có ích cho gia đình và cho xã hội là phù hợp với hành vi mà bị cáo đã gây ra và phù hợp với quy định của pháp luật.
Tại bản án số: 08/2018/HSST ngày 15/06/2018 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình bị cáo Nguyễn L phải chấp hành hình phạt 12 (Mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (Hai mươi bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/2/2018 đến ngày 12/2/2018. Căn cứ Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/05/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo. Tổng hợp hình phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm tại bản án số: 08/2018/HSST ngày 15/06/2018 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình. Thời gian tạm giữ, tạm giam tại bản án số: 08/2018/HSST ngày 15/06/2018 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù là 03( ba) ngày, sẽ được trừ vào phần chấp hành hình phạt của bị cáo.
Căn cứ khoản 1 điều 329 BLTTHS tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận được tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì về dân sự, nên không xem xét giải quyết.
[5] Về vật chứng vụ án:
Đối với 01 (Một) con chó màu vàng, nặng 11kg ngày 13/01/2020 Cơ quan điều tra Công an huyện L đã trả lại cho chủ sở hữu là ông Nguyễn Văn H, nên không xem xét giải quyết.
Tại phần tranh luận bị cáo Nguyễn L nhận tội và không có ý kiến tranh luận gì. Lời nói sau cùng bị cáo: Nhận tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn L phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.
2. Áp dụng điểm b khoản 1 điều 173; điểm h,s khoản 1 điều 51, điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Tùng Linh 12 ( mười hai) tháng tù.
Áp dụng khoản 5 điều 65, khoản 2 điều 56 Bộ luật Hình sự. Tổng hợp hình phạt 12( Mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (Hai mươi bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm tại bản án số: 08/2018/HSST ngày 15/06/2018 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình. Buộc bị cáo Nguyễn L phải chấp hành chung cho hai bản án là: 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, được trừ 03 (Ba) ngày tạm giữ, tạm giam. Bị cáo còn phải chấp hành là: 23 (Hai mươi ba) tháng, 27 (Hai mươi bẩy) ngày tù.
Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 13/01/2020).
3. Về trách nhiệm dân sự: Không đề cập.
4. Về vật chứng vụ án: Không đề cập.
5.Về án phí sơ thẩm: áp dụng các khoản 1,2 Điều 135; Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Toà án: Buộc bị cáo Nguyễn L phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
6. Quyền kháng cáo:
Bị cáo Nguyễn L có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 04/2020/HS-ST
Số hiệu: | 04/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lạc Thủy - Hoà Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/02/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về