Bản án về tội trộm cắp tài sản số 03/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI NƯỚC, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 03/2024/HS-ST NGÀY 02/02/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 02 năm 2024 tại Tòa án nhân dân huyện Cái Nước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 02/2024/TLST-HS, ngày 08 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2022/QĐXXST-HS, ngày 19 tháng 01 năm 2024, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Đỗ Văn T, sinh ngày 08/7/1992 tại huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau. Nơi cư trú: Ấp B, xã Đ, huyện C, tỉnh C .; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Văn Miền và bà Trần Thị Ly; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không, tiền sự: Ngày 01/9/2021, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Đông Thới, huyện Cái Nước áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, thời hạn 03 tháng, chấp hành xong ngày 20/11/2021, chưa xóa tiền sự; bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ ngày 19/9/2023, sau đó chuyển tạm giam cho đến nay; bị cáo bị tạm giam có mặt.

2. Họ và tên: Bùi Long B, sinh ngày 10/9/2000 tại huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau. Nơi cư trú: Ấp Đ, xã T, huyện C, tỉnh C .; nghề nghiệp: Làm vuông; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn Ngoan và bà Nguyễn Út Lớn (Nguyễn Thị Út); vợ, con: Chưa có; tiền án: Ngày 24/7/2023, Tòa án nhân dân huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau xử phạt 05 tháng 01 ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sư, được trả tự do tại phiên tòa, chưa xóa án tích, tiền sự: Ngày 04/5/2021, Tòa án nhân dân huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau áp dụng biện pháp xử lý hành chính “Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”, thời hạn 18 tháng, chưa chấp hành quyết định này. Ngày 05/02/2023, bị Công an xã Tân Hưng Đông, huyện Cái Nước xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” với số tiền 1.500.000 đồng, chưa nộp phạt; bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ ngày 19/9/2023, sau đó chuyển tạm giam cho đến nay; bị cáo bị tạm giam có mặt.

- Bị hại: Anh Bùi Chí C, sinh năm 2001 (vắng mặt). Cư trú tại: Ấp T, xã P, huyện P, tỉnh C ..

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Trần K, sinh năm 1989 (vắng mặt).

Cư trú tại: Ấp H, xã T, huyện C, tỉnh C ..

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 03 giờ ngày 18/9/2023, Trường đi từ nhà trọ Gia Thịnh về nhà cha ruột Đỗ Văn Miền. Khi đến trước nhà ông Khấu Hoàng Tiến ở ấp Công Nghiệp, xã Tân Hưng Đông, huyện Cái Nước thì thấy 01 xe môtô, loại Exiter, màu sơn trắng - đỏ - đen, biển kiểm soát 69E1-X của anh Bùi Chí C đang để bên vách nhà ông Tiến không người trông coi nên nảy sinh ý định lấy trộm. Trường lén lút dẫn xe ra ngoài đường, dùng tay bứt dây mát xe, đạp nổ máy, rồi điều khiển xe chạy về nhà trọ Gia Thịnh để cất giấu. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, Trường gọi điện thoại cho Bùi Long B nói trộm được chiếc xe trên, kêu Bên tìm người mua để bán với giá 5.000.000 đồng, nếu bán được giá cao hơn thì Bên được hưởng phần chênh lệch đó được Bên đồng ý. Bên và Trường đem xe trộm được về nhà của Bên ở ấp Đông Hưng, xã Tân Hưng Đông, huyện Cái Nước để Trường tháo biển số xe cất giấu, sau đó Trường tiếp tục đem xe về nhà trọ Gia Thịnh cất giấu, còn Bên đến tiệm sửa xe của anh Trần K để kêu bán với số tiền 8.000.000 đồng, anh K hẹn thấy được xe thì mới đồng ý mua. Đến khoảng 09 giờ ngày 19/9/2023, Bên và Trường điều khiển xe trộm được đi bán, do xe không có biển số nên bị Công an xã Tân Hưng Đông dừng phương tiện kiểm tra, tạm giữ xe và mời về làm việc. Qua làm việc Trường, Bên đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Kết luận định giá tài sản số 27/KL-HDĐGTS ngày 22/9/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự huyện Cái Nước kết luận: 01 xe môtô, nhãn hiệu Yamaha, loại Exiter, màu sơn trắng - đỏ - đen, biển kiểm soát 69E1-X, có giá trị là 28.140.000 đồng.

Vật chứng vụ án: 01 xe môtô, nhãn hiệu Yamaha, loại Exiter, màu sơn trắng - đỏ - đen; 01 biển kiểm soát 69E1-X đã trả lại cho bị hại Cường.

Tại Cáo trạng số: 03/CT -VKS, ngày 08 tháng 01 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cái Nước truy tố các bị cáo Đỗ Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự; Bùi Long B về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cái Nước giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố đối với các bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình phạt:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Đỗ Văn T từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Bùi Long B từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Tại phiên tòa: Các bị cáo không tham gia tranh luận; các bị cáo nói lời nói sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Cái Nước, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thự hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Đỗ Văn T, Bùi Long B thừa nhận hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai của bị hại và những người tham gia tố tụng trong vụ án, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án, thể hiện: Khoảng 03 giờ ngày 18/9/2023, lợi dụng sự sơ hở, không ai trông coi tài sản của anh Bùi Chí C tại nhà ông Khấu Hoàng Tiến thuộc ấp Công Nghiệp, xã Tân Hưng Đông, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau, bị cáo Đỗ Văn T lén lút lấy trộm xe mô tô hiệu, loại Exiter, màu sơn trắng - đỏ - đen, biển kiểm soát 69E1-X, mục đích bán tiêu xài cá nhân. Giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt theo kết luận định giá là 28.140.000 đồng. Đối với Bùi Long B biết rõ xe môtô, hiệu Exiter, màu sơn trắng - đỏ - đen, biển kiểm soát 69E1-X do bị cáo Trường trộm cắp mà có nhưng vẫn đồng ý nhận và tìm người tiêu thụ. Hành vi của các bị cáo Đỗ Văn T, Bùi Long B đã xâm hại tài sản người khác trái pháp luật, chiếm đoạt trái phép tài sản của bị hại là vi phạm pháp luật hình sự.

Các bị cáo Đỗ Văn T, Bùi Long B là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ nhận thức biết rõ trộm cắp tài sản của người khác và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là vi phạm pháp luật, nhưng vì bản chất tham lam, lười lao động, thích hưởng thụ mà các bị cáo đã bất chấp pháp luật thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp.

Hành vi của các bị cáo Đỗ Văn T, Bùi Long B đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 và tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cái Nước truy tố các bị cáo Đỗ Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự;

bị cáo Bùi Long B phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp luật, đúng với hành vi phạm tội của các bị cáo.

[3] Xét hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật, ảnh hưởng đến tình hình trật tự tại địa phương. Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi của các bị cáo đã thực hiện để có thời gian giáo dục, cải tạo các bị cáo để trở thành người có ích cho xã hội.

[4] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo, Hội đồng xét xử có xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như:

Về tình tiết tăng nặng: Tại thời điểm phạm tội các bị cáo có nhân thân xấu, bị cáo Trường có 01 tiền sự; bị cáo Bên có 02 tiền sự và có 01 tiền án chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo Trường phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo Bên có người thân có công với cách mạng. Do đó, bị cáo Trường được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo Bên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Cường đã nhận lại tài sản và không yêu cầu các bị cáo bồi thường nên không đặt ra xem xét.

Đối với anh Trần K không biết xe do bị cáo Bên bán là do trộm cắp mà có, việc mua bán xe chưa được thực hiện nên không xử lý là phù hợp.

[6] Từ những phân tích nêu trên nên đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với các bị cáo là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo Trường, Bên phải chịu theo quy định.

[8] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Đỗ Văn T 01 (một) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 19/9/2023.

2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Long B phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Xử phạt: Bị cáo Bùi Long B 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày 19/9/2023.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm:

Buộc các bị cáo Đỗ Văn T, Bùi Long B mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng, nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cái Nước.

Án xử sơ thẩm công khai, các bị cáo Trường, Bên có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh C và anh K vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 03/2024/HS-ST

Số hiệu:03/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Nước - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:02/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về