TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN TRE, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 03/2023/HS-ST NGÀY 01/02/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 01 tháng 02 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 92/2022/TLST-HS ngày 07/12/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/ 2 0 2 3 /QĐXXST-HS ngày 05/01/2023 đối với bị cáo:
Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1987 tại tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: số 75D, ấp A, xã M, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre; trình độ văn hóa: 10/12; nghề nghiệp: không; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1961 (chết) và bà Dương Thị Ánh L, sinh năm 1965; vợ: Lê Thị Thanh Tr, sinh năm 1994 (đã ly hôn); con: có 01 người con sinh năm 2013.
Tiền án: Ngày 31/3/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre xét xử tuyên phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 16/2017/HSST); Ngày 04/5/2022, bị Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre xét xử tuyên phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số: 35/2022/HS-ST).
Tiền sự: không;
Nhân thân: Ngày 20/01/2011, bị Công an phường 3, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre ra xử phạt 2.000.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Ngày 03/12/2013, bị Công an thành phố Bến Tre ra quyết định xử phạt 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” (nộp phạt xong ngày 11/12/2013). Ngày 06/3/2014, bị Chủ tịch UBND xã Mỹ Thạnh An ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã thời hạn 06 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 19/9/2016, bị Công an xã Mỹ Thạnh An ra quyết định xử phạt 375.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” (đã nộp phạt xong ngày 19/9/2016). Ngày 09/01/2017, bị Công an xã Mỹ Thạnh An ra quyết định xử phạt 2.000.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”;
Bị cáo chấp hành án tại Trại giam Châu Bình từ ngày 14/6/2022 cho đến nay, có mặt.
- Bị hại:
1. Huỳnh Văn Ph, sinh năm 1963, nơi cư trú: Số 211D, ấp A, xã M, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre. Vắng mặt
2. Nguyễn Thị Ẩ, sinh ngày 03/02/1952, nơi cư trú: Số 81C, ấp C, xã M, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre. Vắng mặt
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Lê Thị Lệ Th, sinh năm 1967, nơi cư trú: Số 306D2, ấp A, xã M, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre. Vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Ngọc L là đối tượng đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích, trong khoảng thời gian từ ngày 30/5/2022 đến ngày 08/6/2022, trên địa bàn xã Mỹ Thạnh An, thành phố Bến Tre, Lâm tiếp tục thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản của người khác, cụ thể:
Vụ thứ nhất: Vào khoảng 08 giờ ngày 30/5/2022, Nguyễn Ngọc L một mình đi bộ đến khu vực ấp An Thuận A, xã Mỹ Thạnh An với mục đích tìm tài sản để trộm cắp. Khi đi đến nhà của ông Huỳnh Văn Ph , L phát hiện bên hông nhà ông Ph có dựng 01 chiếc xe đạp và cửa rào chỉ móc khóa ngoài nhưng không khóa nên L mở ổ khóa đột nhập vào bên trong lấy chiếc xe đạp của ông Ph dẫn ra để ngoài hàng rào rồi tiếp tục trở vào sân nhà lấy của ông Ph 01 vỉ sắt đem ra ngoài để lên xe đạp chạy đi. Sau khi lấy được tài sản, L đem vỉ sắt bán cho chị Lê Thị Lệ Th được 100.000 đồng, bán chiếc xe đạp cho người mua ve chay (không rõ họ tên, địa chỉ) được 80.000 đồng. Hiện tài sản không thu hồi được.
Theo Bảng kết luận định giá trị tài sản số 498/KL-HĐĐG ngày 11/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Bến Tre kết luận: 01 vỉ sắt kích thước 60cm x 100cm, cân nặng 12kg, trị giá ngày 30/5/2022 là 72.000 đồng; 01 xe đạp màu xám, không rõ nhãn hiệu, trị giá ngày 30/5/2022 là 100.000 đồng.
Vụ thứ 2: Vào khoảng 04 giờ ngày 08/6/2022, Lâm tiếp tục đi bộ đến nhà bà Nguyễn Thị A thì phát hiện phía trước thềm nhà bà A có để 01 vỉ sắt và 01 giá võng và không có ai trông coi nên L đi vào lấy vỉ sắt và giá võng của bà A rồi tẩu thoát và định tìm nơi để bán lấy tiền tiêu xài, nhưng trên đường đi thì bị lực lượng Công an phát hiện mời về làm việc và L thừa nhận hành vi trộm cắp như trên.
Vật chứng thu giữ: 01 vỉ sắt kích thước 40cm x 80cm, cân nặng 08kg; 01 giá võng màu đen, đã qua sử dụng.
Theo Bảng kết luận định giá trị tài sản số 501/KL-HĐĐG ngày 12/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Bến Tre kết luận: 01 vỉ sắt kích thước 40cm x 80cm, cân nặng 08kg, đã qua sử dụng, trị giá ngày 08/6/2022 là 96.000 đồng; 01 giá võng màu đen, đã qua sử dụng, trị giá ngày 08/6/2022 là 150.000 đồng.
Quá trình điều tra, Nguyễn Ngọc L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của các bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, kết quả thực nghiệm điều tra và các chứng cứ khác đã thu thập được. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre đã trả lại cho bị hại Nguyễn Thị A 01 vỉ sắt và 01 giá võng. Ông Ph không yêu cầu L bồi thường vỉ sắt và chiếc xe đạp không thu hồi được. Hiện bà A, ông P và chị T không yêu cầu gì thêm.
Tại cáo trạng số 01/CT-VKSTPBT ngày 06/12/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre đã truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
- Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung cáo trạng và đề nghị:
+ Về hình phạt chính: áp dụng: điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm i, g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo Lâm từ 09 đến 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” của bản án số: 35/2022/HS-ST ngày 04/5/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre để buộc bị cáo chấp hành chung.
+ Về hình phạt bổ sung: đề nghị không áp dụng.
+ Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Ghi nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre đã trả lại cho bị hại Nguyễn Thị A 01 vỉ sắt và 01 giá võng. Ông P không yêu cầu L bồi thường vỉ sắt và chiếc xe đạp không thu hồi được.
Bà A, ông P và chị T không yêu cầu gì thêm.
- Bị cáo thừa nhận đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản vào ngày 30/5/2022 và ngày 08/6/2022, trên địa bàn xã Mỹ Thạnh An, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre như cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không khiếu nại các hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Bị cáo nói lời nói sau cùng: bị cáo thừa nhận hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, có lỗi và đề nghị giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an thành phố Bến Tre, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu giải quyết vắng mặt, người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa trong quá trình điều tra, họ đã có lời khai đầy đủ, rõ ràng, sự vắng mặt của họ không làm ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt họ là phù hợp quy định tại các điều 292, 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Ngọc L tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập trong quá trình điều tra, đủ cơ sở xác định: vào ngày 30/5/2022 và ngày 08/6/2022, trên địa bàn xã Mỹ Thạnh An, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre, Nguyễn Ngọc L lại tiếp tục có hành vi lén lút chiếm đoạt của bị hại Huỳnh Văn Ph 01 vỉ sắt và 01 chiếc xe đạp với tổng trị giá 172.000 đồng và chiếm đoạt của bị hại Nguyễn Thị A 01 vỉ sắt và 01 giá võng với tổng trị giá 246.000 đồng.
[3] Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích, bị cáo nhận biết rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm nhưng xuất phát từ động cơ tư lợi bất chính, bị cáo đã cố ý lén lút chiếm đoạt tài sản của các bị hại. Vì vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre đã truy tố bị cáo Lâm về “Tội trộm cắp tài sản” được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng luật định.
[4] Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, lợi dụng chủ sở hữu thiếu cảnh giác trong việc quản lý tài sản đã thực hiện hành vi phạm tội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn. Khi bị cáo thực hiện tội phạm đã gây ra tâm lý lo sợ cho quần chúng nhân dân trong lao động, trong sinh hoạt hàng ngày.
[5] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân xấu đã nhiều lần bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản và sử dụng trái phép chất ma túy. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” và “Phạm tội đối với người từ đủ 70 tuổi trở lên” theo quy định tại điểm g, i khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ: “Phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn”, “Người phạm tội thành khẩn khai báo” theo quy định tại các điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Căn cứ vào nhân thân, tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi bị cáo gây ra, xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và có tác dụng phòng ngừa chung. Áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” của bản án số: 35/2022/HS-ST ngày 04/5/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre với hình phạt của bản án này để buộc bị cáo chấp hành chung.
[6] Về hình phạt bổ sung: do bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[7] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Ghi nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre đã trả lại cho bị hại Nguyễn Thị A 01 vỉ sắt và 01 giá võng. Ông P không yêu cầu Lâm bồi thường vỉ sắt và chiếc xe đạp không thu hồi được. Bà A, ông P và chị T không yêu cầu gì thêm.
[8] Lời phát biểu luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh đối với bị cáo là “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, hình phạt, xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp là phù hợp với quy định pháp luật được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Về án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải nộp theo quy định của Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc L phạm tội “Trộm cắp tài sản”;
1. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1Điều 51; điểm g, i khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc L 01 (một) năm tù.
Áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” của bản án số: 35/2022/HS-ST ngày 04/5/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre với hình phạt của bản án này để buộc bị cáo chấp hành chung là 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù.
Thời hạn tù tính từ ngày 14/6/2022.
2. Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:
Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Nguyễn Ngọc L phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 03/2023/HS-ST
Số hiệu: | 03/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/02/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về